Trách nhiệm, thẩm quyền của ủy ban kiểm tra trong phòng ngừa chạy chức, chạy quyền

Thứ năm, 03/03/2022 15:40
(ThanhtraVietNam) - Chạy chức, chạy quyền được cho là hành vi tham nhũng trong công tác cán bộ (1) dẫn đến tình trạng bổ nhiệm chức vụ, quyền hạn cho cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện; hoặc đưa người thân, cùng “ekip” vào bộ máy công quyền dưới vỏ bọc “đúng quy trình,” “đúng quy định”. Vấn nạn này ngày càng trở nên phổ biến, là “lỗ hổng” của công tác cán bộ, gây bức xúc trong dư luận xã hội, ảnh hưởng tiêu cực tới lòng tin của Nhân dân vào Đảng và chế độ ta.

 Nhằm “kiểm soát chặt chẽ quyền lực, sàng lọc kỹ càng, thay thế kịp thời; chấm dứt tình trạng chạy chức, chạy quyền” (2) trong công tác cán bộ, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp quyết liệt và cụ thể. Tuy nhiên, hiện nay, chúng ta vẫn chưa có biện pháp hữu hiệu để kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền và những tiêu cực trong công tác cán bộ. (3) Trước bối cảnh này, việc tiếp tục nghiên cứu để tăng cường trách nhiệm, thẩm quyền của ủy ban kiểm tra (UBKT) các cấp trong phòng ngừa chạy chức, chạy quyền là thực sự cấp thiết.

Theo Điều 31, Quy định số 30-QĐ/TW ngày 26/7/2016 của Ban Chấp hành Trung ương quy định thi hành chương VII và chương VIII Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng, UBKT các cấp gồm: Ủy ban Kiểm tra Trung ương; ủy ban kiểm tra tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương; Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương; Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương; Ủy ban Kiểm tra Quân ủy Trung ương; Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương; Ủy ban Kiểm tra của Đảng ủy Ngoài nước; ủy ban kiểm tra của cấp ủy trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy; ủy ban kiểm tra đảng ủy cấp trên cơ sở; ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở. (Đảng ủy bộ phận và chi bộ không lập ủy ban kiểm tra; tập thể cấp ủy, chi bộ thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và phân công 1 cấp ủy viên phụ trách). (4) Theo đó, nói đến trách nhiệm và thẩm quyền của UBKT trong công tác phòng, chống chạy chức, chạy quyền thì chủ thể ở đây bao gồm UBKT từ cấp huyện và tương đương trở lên, chưa áp dụng đối với UBKT cấp cơ sở vì ở cấp này cán bộ kiểm tra chủ yếu là kiêm nhiệm.

Trách nhiệm của UBKT được hiểu là những nghĩa vụ, bổn phận của UBKT khi thực hiện các quyền mà tổ chức Đảng quy định; đồng thời, cũng có thể là hậu quả mà UBKT phải gánh chịu do thực hiện không đúng, hoặc không thực hiện nghĩa vụ, bổn phận của mình. Bên cạnh đó, thẩm quyền của UBKT được hiểu là những quyền hạn được Đảng quy định cho UBKT để cơ quan này thực hiện vai trò, chức trách, nhiệm vụ của mình.

Tại Điều 10, Quy định số 205-QĐ/TW do Bộ Chính trị ban hành ngày 23/9/2019 về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền (Quy định 205-QĐ/TW), các hành vi chạy chức, chạy quyền được thống nhất cách hiểu, bao  gồm: (1) Tiếp cận, thiết lập quan hệ, hối lộ, mua chuộc người có trách nhiệm, chức vụ, quyền hạn hoặc người có liên quan nhằm mục đích có được vị trí, chức vụ, quyền lợi; (2) Tranh thủ mọi lúc, mọi nơi, nhất là các dịp lễ tết, sinh nhật và các cơ hội khác, sử dụng danh nghĩa tình cảm cá nhân hoặc danh nghĩa tổ chức, cơ quan, đơn vị, cá nhân khác để tặng quà, tiền, bất động sản, sắp xếp các hoạt động vui chơi, giải trí cho cán bộ lãnh đạo, người có thẩm quyền hoặc người có liên quan nhằm mục đích được sự ủng hộ, tín nhiệm, được vị trí, chức vụ, quyền lợi; (3) Lợi dụng các mối quan hệ thân quen hoặc sử dụng lợi thế, vị trí công tác, uy tín của người khác để tác động, tranh thủ, gây sức ép với người có thẩm quyền, trách nhiệm trong việc giới thiệu, bổ nhiệm mình hoặc người khác, "cánh hẩu" vào vị trí, chức vụ theo ý đồ cá nhân hoặc một nhóm người; (4) Lợi dụng việc nắm được thông tin nội bộ hoặc thông tin bất lợi của tổ chức, cá nhân để đặt điều kiện, gây sức ép đối với người có thẩm quyền, trách nhiệm trong việc giới thiệu, đề cử, bổ nhiệm mình; (5) Dùng lý lịch, xuất thân gia đình, thành tích công tác của bản thân để mặc cả, cài đặt điều kiện, đòi hỏi vô lý đối với tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, trách nhiệm nhằm có được vị trí, chức vụ, quyền lợi; (6) Sử dụng các hành vi tiêu cực khác nhằm có được vị trí, chức vụ, quyền lợi. (5)

leftcenterrightdel

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Bên cạnh việc thống nhất cách hiểu về các hành vi chạy chức, chạy quyền, lần đầu tiên Bộ Chính trị cũng đã quy định cụ thể về các hành vi bao che, tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền. Đó là các hành vi sau: (1) Biết nhân sự có hành vi chạy chức, chạy quyền nhưng che giấu, thỏa hiệp, không xử lý theo thẩm quyền hoặc không báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý; (2) Không xử lý theo thẩm quyền quy định hoặc không báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý khi nhận được đơn, thư phản ánh, tố cáo nhân sự có hành vi chạy chức, chạy quyền; (3) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc dùng uy tín, ảnh hưởng của bản thân và gia đình gợi ý, tác động, gây áp lực để người khác quyết định hoặc tham mưu, đề xuất, nhận xét, đánh giá, biểu quyết, bỏ phiếu giới thiệu nhân sự theo ý mình; (4) Xác nhận, chứng thực, nhận xét, đánh giá không đúng sự thật hoặc làm giả, làm sai lệch nội dung hồ sơ nhân sự, kết quả bầu cử, lấy phiếu giới thiệu, phiếu tín nhiệm, thi tuyển nhằm có lợi cho nhân sự hoặc để đạt mục đích cá nhân; (5) Trì hoãn, không thực hiện khi thấy bất lợi hoặc chọn thời điểm có lợi đối với nhân sự theo ý mình để thực hiện quy trình công tác cán bộ; (6) Trực tiếp hoặc gián tiếp nhận hối lộ nhằm giúp cho người khác có được vị trí, chức vụ, quyền lợi không chính đáng; (7) Trực tiếp hoặc gián tiếp hỗ trợ, môi giới cho nhân sự thực hiện các hành vi chạy chức, chạy quyền; (8) Các hành vi khác nhằm bao che, tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền. (6)

Để phòng ngừa chạy chức, chạy quyền cũng chính là phòng ngừa 6 nhóm hành vi chạy chức, chạy quyền và 8 nhóm hành vi bao che, tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền tiêu cực nêu trên. Theo đó, để bảo đảm cho công tác phòng ngừa chạy chức, chạy quyền được thực hiện có căn cơ, hiệu quả với quyết tâm chính trị cao, kiên trì, làm nghiêm từ trên xuống, không có “vùng cấm”, thiết nghĩ, UBKT các cấp phải chủ động và quyết liệt hơn nữa trong thực hiện các giải pháp sau:

Một là: Cần coi trọng công tác phòng ngừa, nhận diện rõ để chủ động có những giải pháp đấu tranh quyết liệt, hiệu quả với các đối tượng có biểu hiện, hành vi chạy chức, chạy quyền. Coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng và danh dự của cán bộ để hình thành văn hóa không chạy chức, chạy quyền. Cần nhận thức sâu sắc và tuyên truyền, giáo dục sâu rộng về tác hại nghiêm trọng của tệ chạy chức, chạy quyền, coi đây là hành vi tham nhũng trong công tác cán bộ. Tham nhũng trong công tác cán bộ vừa có những điểm chung của tham nhũng, vừa có những đặc thù về hành vi, về “vụ lợi”. Khác với tham nhũng vì lợi ích vật chất, tham nhũng trong công tác cán bộ có thể được hiểu là “tham nhũng quyền lực”, “tham nhũng quan hệ”, vụ lợi tinh thần, rất khó kết luận là tham nhũng, lại càng khó khởi tố, xét xử. Các hành vi tham nhũng trong công tác cán bộ diễn ra ở nhiều khâu của công tác cán bộ với rất nhiều cách thức từ đơn giản, trắng trợn đến tinh vi, từ dễ quan sát thấy đến mập mờ tốt xấu, đúng sai. Tuy nhiên, với 6 nhóm hành vi chạy chức, chạy quyền và 8 nhóm hành vi bao che, tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền đã được Bộ Chính trị chỉ rõ tại Quy định 205-QĐ/TW, việc nhận diện và quy trách nhiệm đối với các cá nhân, tổ chức có liên quan đã trở nên dễ dàng hơn.

Hai là: Tham mưu, giúp cấp ủy quyết định các chủ trương, định hướng và ban hành các quy định về công tác kiểm tra, giám sát, các quy tắc ứng xử, chuẩn mực đạo đức để phòng ngừa chạy chức, chạy quyền. Qua đó góp phần xây dựng, hoàn thiện thể chế để kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ theo nguyên tắc: Mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền hạn phải được ràng buộc bằng trách nhiệm. Vấn đề kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ đã được nêu rõ trong các Văn kiện Đại hội lần thứ XII, XIII và các Nghị quyết của Đảng ta. Quy định 205-QĐ/TW ra đời nhằm cảnh báo, ngăn chặn nạn chạy chức, chạy quyền. Đồng thời, những quy định này còn góp phần đề cao lòng tự trọng, hình thành văn hóa công tác cán bộ, trách nhiệm nêu gương của người có thẩm quyền cũng như công tác nhân sự lãnh đạo. Đề cao việc giữ nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong công tác cán bộ, nội dung này được xác định là một trong những trọng tâm quan trọng đột phá của công tác cán bộ trước yêu cầu mới hiện nay. Thực tế cho thấy, Quy định số 205-QĐ/TW ngày 23/9/2019 của Bộ Chính trị ra đời chính là cơ chế, tạo mọi điều kiện để Nhân dân giám sát cán bộ và công tác cán bộ một cách hiệu quả. Do vậy, các cấp ủy Đảng phải triển khai có hiệu quả quy định này để kiểm soát có hiệu quả quyền lực và chống chạy chức, chạy quyền trong công tác cán bộ, góp phần thiết thực vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, lãnh đạo đất nước ngày càng phát triển nhanh và bền vững, thực hiện mục tiêu cao cả của Đảng: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Ba là: Định hướng và thực hiện tuyên truyền, phổ biến các quy định của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát để giáo dục đạo đức, nâng cao nhận thức, bản lĩnh chính trị của đảng viên. Theo đó, đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức và trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp, các ngành, của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu về vị trí, vai trò, mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng. Mọi cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu, phải gương mẫu, đi đầu, tự giác, thống nhất cao về ý chí và hành động để giữ gìn uy tín, củng cố niềm tin của Nhân dân và phải công khai để Nhân dân biết, ủng hộ và tham gia giám sát, kịp thời phát hiện, phản ánh với các cơ quan có thẩm quyền về các hành vi chạy chức, chạy quyền. Phải kiên định, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng ngừa tệ nạn chạy chức, chạy quyền trong công tác tổ chức cán bộ.  

Công tác tuyên truyền cần được đẩy mạnh trên các phương tiện thông tin đại chúng bằng nhiều hình thức, biện pháp thích hợp; chú trọng nhân rộng các nhân tố điển hình, kinh nghiệm hay, cách làm sáng tạo, hiệu quả; rà soát, tiếp tục mở các chuyên trang, chuyên mục, xuất bản, phát hành sách, báo, các tác phẩm văn học, nghệ thuật về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Thực hiện tốt cơ chế phối hợp trao đổi thông tin và tuyên truyền, phổ biến về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật giữa cơ quan UBKT các cấp với các cơ quan tư pháp, thanh tra, kiểm toán và các cơ quan báo chí.

Bốn là: Trực tiếp kiểm tra, giám sát tổ chức Đảng cấp dưới trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nghị quyết, chỉ thị, các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong phòng ngừa chạy chức, chạy quyền khi được cấp ủy giao. Giám sát tổ chức Đảng, đảng viên trong việc triển khai và thực hiện kê khai, công khai tài sản theo quy định. Giám sát đảng viên trong việc thực hiện trách nhiệm nêu gương, giữ gìn đạo đức, lối sống; đảng viên có dư luận bất minh về tài sản và sinh hoạt, trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; giám sát đảng viên có trách nhiệm trực tiếp đấu tranh phòng, chống chạy chức, chạy quyền.

Thực hiện đồng bộ giữa kiểm tra và giám sát theo phương châm “giám sát phải mở rộng”“kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm”; trong đó, coi trọng và tăng cường giám sát để nhắc nhở, cảnh báo, chủ động phòng ngừa những vi phạm. Trong kiểm tra, khi có dấu hiệu vi phạm, phải chủ động, kịp thời, chọn đúng thời điểm và đúng nội dung kiểm tra, tập trung vào những địa bàn, lĩnh vực dễ xảy ra vi phạm để kết luận rõ ràng, chính xác, khách quan, chứng cứ đến đâu kết luận xử lý đến đó. Việc xử lý kỷ luật phải nghiêm minh; song, cần phải trên tinh thần nhân văn, “trị bệnh cứu người”. Vi phạm của đảng viên, nhất là vi phạm có liên quan đến tham nhũng, cần phải được phát hiện trước hết trong nội bộ tổ chức Đảng để sớm ngăn chặn ngay từ khi mới manh nha; tránh để vi phạm nhỏ trở thành vi phạm lớn, vi phạm ít nghiêm trọng trở thành vi phạm nghiêm trọng.

Năm là: Tham mưu, giúp cấp ủy thực hiện công khai, minh bạch tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự, cung cấp, trao đổi thông tin và giải trình khi có yêu cầu; xác minh, xử lý kịp thời, hiệu quả thông tin phản ánh từ các tổ chức, cá nhân; công khai kịp thời trên các phương tiện thông tin đại chúng theo quy định các kết quả kiểm tra, giám sát và xử lý kỷ luật đảng viên, tổ chức Đảng vi phạm. Việc công khai kết quả kiểm tra và xử lý vi phạm sẽ làm tăng thêm tính răn đe đối với những đối tượng đã, đang và sẽ có những hành vi vi phạm các quy định của Đảng và Nhà nước.

Sáu là: Đề nghị cấp ủy cùng cấp, cấp ủy, tổ chức Đảng cấp dưới và các cơ quan nhà nước sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ các văn bản không còn phù hợp, bất cập, sơ hở có nguy cơ làm phát sinh chạy chức, chạy quyền. Đây là một nội dung rất quan trọng trong công tác phòng ngừa các hành vi và thủ đoạn bao che, tiếp tay cho các hành vi chạy chức, chạy quyền. Mặt khác, đây cũng là nội dung hết sức nhân văn, đặc thù trong thẩm quyền và trách nhiệm của UBKT các cấp, nhằm phòng ngừa chạy chức, chạy quyền; góp phần bảo vệ cán bộ, đảng viên và tổ chức, không để họ lún sâu vào những sai phạm cũng như gây thiệt hại khó lường trong công tác tổ chức, cán bộ của Đảng và Nhà nước ta; bảo vệ lòng tin của Nhân dân đối với Đảng và chế độ ta.

Bảy là: Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các cơ quan kiểm tra, thanh tra, điều tra, kiểm toán và các cơ quan quản lý nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong hoạt động kiểm tra, giám sát. UBKT các cấp tiếp tục tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy cùng cấp sửa đổi, bổ sung, xây dựng ban hành mới quy chế phối hợp giữa UBKT với cơ quan điều tra, thanh tra, kiểm toán, viện kiểm sát, tòa án nhân dân và tổ chức thực hiện có chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan theo hướng UBKT chủ trì phối hợp và điều phối thực hiện việc phối hợp… Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra, giám sát cho thấy, nếu các cơ quan nói trên thực hiện tốt quy chế phối hợp thì hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, điều tra, kiểm toán, giám sát ngày càng được nâng cao.

Tóm lại, để phòng ngừa chạy chức, chạy quyền trong công tác cán bộ phải thực hiện đồng bộ, tổng thể các giải pháp mang tính căn cơ, trước mắt và lâu dài của cả hệ thống chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân. Để nâng cao trách nhiệm và thẩm quyền của UBKT các cấp trong phòng ngừa chạy chức, chạy quyền đòi hỏi UBKT các cấp phải chủ động hơn, quyết liệt hơn, độc lập và thực quyền hơn, đảm bảo chế tài đủ mạnh, không có vùng cấm, không có ngoại lệ./.

K. Dung

Chú thích:

(1), (2), (3) Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII ban hành ngày 19/5/2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ;

(4) Điều 31, Quy định số 30-QĐ/TW ngày 26/7/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Quy định thi hành chương VII và chương VIII Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng;

(5), (6) Điều 10, Điều 11 Quy định 205-QĐ/TW do Bộ Chính trị ban hành ngày 23/9/2019 về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền.

Tài liệu tham khảo:

(1) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996;

(2) Https://lsvn.vn/van-de-kiem-soat-quyen-luc-trong-cong-tac-can-bo-hien-nay1616839950.html;

(3) Http://www.xaydungdang.org.vn/Home/Lyluan-Thuctien-Kinhnghiem/2021/15383/Trach-nhiem-va-tham-quyen-cua-uy-ban-kiem-tra-trong-xem.aspx;

(4) Https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung- dang/-/2018/821836/nang-cao-chat-luong%2C-hieu-luc%2C-hieu-qua-cong-tac-kiem-tra%2C-giam-sat%2C-ky-luat-dang-theo-tinh-than-nghi-quyet-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-dang.aspx;

(5) Https://lsvn.vn/van-de-kiem-soat-quyen-luc-trong-cong-tac-can-bo-hien- nay1616839950.html.

Ý kiến bình luận
Họ và tên *
Email *
 
Nội dung bình luận *
Xác thực *

Bản quyền thuộc Tạp chí Thanh tra