1.Mở đầu
Xây dựng pháp luật chính là một loại thiết kế xã hội, bao gồm việc dựng cho xã hội một "bản vẽ", một bộ khung, mô hình, góp phần vào việc định hình, định hướng xã hội theo một hệ thống các quy ước nhất định. Hoạt động xây dựng pháp luật thực chất là tạo nên các quy phạm pháp luật - quy tắc của hành vi - để tác động vào các quan hệ xã hội, làm chúng đi theo đúng khuôn khổ mà xã hội mong muốn. Các khuôn khổ đó sẽ cung cấp quy tắc ứng xử, mô hình hóa hành vi của các thành viên trong xã hội, kiềm chế họ không thực hiện hoặc bắt buộc phải thực hiện những hành vi nhất định, hoặc sẽ hành xử như thế này mà không phải như thế khác. Xây dựng pháp luật tạo ra các khung khổ để thay đổi các hành vi có xu hướng cản trở sự phát triển (đặc biệt là hành vi của các công chức nhà nước) và ngược lại.
Xây dựng pháp luật xuất phát từ nhu cầu của xã hội, trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhu cầu điều chỉnh này, cùng các quyền, lợi ích, phần lớn trùng hợp với mong muốn của các cá nhân, các nhóm trong xã hội. Hoạt động xây dựng pháp luật không những nằm trong quá trình vận hành chung của xã hội, mà với các quy phạm pháp luật được xây dựng chủ động, mang tính "đón đầu", "phòng ngừa" xã hội trong quá trình điều chỉnh, còn thể hiện sự định hướng xã hội.
Xây dựng pháp luật được vận hành nhờ các chất liệu đa dạng từ cuộc sống, chịu sự tác động nhiều chiều từ các khía cạnh, yếu tố khác nhau trong xã hội. Từ các yếu tố chung như: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, bối cảnh quốc tế, ý thức pháp luật, truyền thống lịch sử cho đến các yếu tố trực tiếp như: Tổ chức, năng lực, kỹ năng, kỹ thuật soạn thảo, phạm vi, tính chất, đối tượng điều chỉnh...
Trong một quốc gia, hệ thống pháp luật là vô cùng quan trọng, vừa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người, vừa là công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu đặc biệt ở một nước theo thể chế xã hội chủ nghĩa như Việt Nam. Để có một hệ thống pháp luật chặt chẽ và hợp với thực tiễn thì khâu xây dựng pháp luật được coi như là mấu chốt, bằng chứng là sự ra đời của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hoạt động xây dựng pháp luật cần qua rất nhiều công đoạn và cũng như những hoạt động khác thì hoạt động xây dựng pháp luật chịu tác động bởi nhiều yếu tố trong đó có các yếu tố như: Năng lực xây dựng pháp luật của các chủ thể; phong tục tập quán; tín ngưỡng, tôn giáo, thông tin đại chúng và dư luận xã hội.
2. Các yếu tố xã hội tác động đến hoạt động xây dựng pháp luật
2.1. Yếu tố năng lực xây dựng pháp luật của các chủ thể
Trình độ xây dựng pháp luật của các chủ thể tác động đến hoạt động xây dựng pháp luật
Chất lượng của hoạt động xây dựng pháp luật mà cụ thể là tính khả thi, hiệu lực và hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật được ban hành phụ thuộc rất nhiều vào năng lực soạn thảo các dự án luật của đội ngũ các chủ thể có thẩm quyền xây dựng pháp luật. Đây là yếu tố có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến hoạt động xây dựng pháp luật, có tác động mang tính quyết định đối với chất lượng của các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, bởi nó trực tiếp biến các chính sách, chủ trương, định hướng chính trị, mong muốn, nhu cầu của xã hội... thành các quy định cụ thể của pháp luật, cái sẽ tác động trực tiếp đến hành vi của các chủ thể liên quan.
Yếu tố này được tạo nên bởi một tổng thể gồm năng lực chuyên môn, khả năng đáp ứng mục tiêu, trách nhiệm về lòng trung thành, tính cẩn mật, khả năng chấm dứt hoặc từ chối tuân theo các chỉ đạo có thể gây ảnh hưởng đến tính minh bạch, chất lượng của quá trình xây dựng pháp luật… cụ thể có thể kể đến một số các khía cạnh như sau:
Thứ nhất, nhận thức của các chủ thể hoạt động xây dựng pháp luật về tầm quan trong, sự cần thiết của các văn bản quy phạm pháp luật cần được xây dựng, ban hành; về trách nhiệm của chủ thể ở tất cả các khâu (từ đề xuất, kiến nghị đến soạn thảo, thẩm định…) đều có ảnh hưởng mạnh mẽ đến chất lượng của văn bản pháp luật. Nhận thức đầy đủ hay mờ nhạt, thái độ hăng hái, tích cực hay thờ ơ, tất cả đều chi phối đến kỹ năng của chủ thể có thẩm quyền, đồng thời tác động đến mức độ quan tâm, tham gia của các chủ thể khác trong xã hội vào quá trình kiểm tra, giám sát, đóng góp ý kiến trong xây dựng pháp luật. Những điều này đều ảnh hưởng đến năng lực soạn thảo và chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành.
Thứ hai, trình độ hiểu biết xã hội, sự am hiểu nhất định của các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng pháp luật về lĩnh vực quan hệ xã hội đang cần có pháp luật điều chỉnh có tác động rất quan trọng đến chất lượng văn bản quy phạm pháp luật. Nếu các chủ thể có được sự hiểu biết đầy đủ, sâu sắc về các mặt, các khía cạnh cụ thể của lĩnh vực quan hệ xã hội đang cần có văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh thì chủ thể sẽ xây dựng, đề xuất được các quy phạm, chuẩn mực pháp luật sát với thực tế; dự liệu được các khả năng, tình huống phát sinh trong tương lai để đưa ra các quy phạm pháp luật đón trước. Ngược lại, nếu các chủ thể xây dựng pháp luật không có hoặc có sự hiểu biết nông cạn về thực trạng các quan hệ xã hội đang cần có pháp luật điều chỉnh sẽ là nguyên nhân làm cho văn bản quy phạm pháp luật được ban hành bị xa rời thực tiễn, không phát huy được hiệu quả, tác dụng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Thứ ba, tri thức, hiểu biết pháp luật và ý thức pháp luật của các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng pháp luật là yếu tố tác động mạnh mẽ đến chất lượng văn bản QPPL được ban hành. Nó là cơ sở để các chủ thể nêu lên các sáng kiến luật; phân tích hình thức, nội dung, cấu trúc của các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; chỉ ra tính hợp hiến, hợp pháp… Kiến thức, hiểu biết pháp luật sẽ giúp các chủ thể có thẩm quyền xem xét, đánh giá những điểm đáng chú ý trong quá trình soạn thảo dự án luật. Từ đó cho ra đời các văn bản quy phạm pháp luật có chất lượng cao, không xảy ra sự chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu đồng bộ, gia tăng hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nếu ý thức pháp luật của các cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước mang tính tích cực, coi trọng trách nhiệm, đạo đức công vụ, sẽ góp phần nâng cao chất lượng, tạo niềm tin cho các chủ thể liên quan trong xây dựng pháp luật.
Thứ tư, hoạt động của cơ quan chủ trì soạn thảo, các cơ quan tham gia, phối hợp và sự đề cao tính chịu trách nhiệm của mỗi cơ quan cũng có tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Về nguyên tắc, cơ quan chịu trách nhiệm soạn thảo dự án luật phải hoạt động độc lập thì mới đảm bảo tính khách quan, vô tư trong dự liệu, đề ra các quy phạm pháp luật, tránh được tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”. Sự tham vấn ý kiến của các cơ quan khác là rất cần thiết nhằm khắc phục sự cảm tính, tùy tiện.
2.2. Yếu tố phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng
2.2.1. Tác động của yếu tố phong tục, tập quán tới hoạt động xây dựng pháp luật
Phong tục, tập quán đã được hình thành và tồn tại trước khi có pháp luật. Khi chưa có pháp luật thì phong tục, tập quán là công cụ quan trọng, phổ biến để điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội. Pháp luật chỉ có thể thay thế một phần chứ không thay thế một cách hoàn toàn phong tục, tập quán trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Vì vậy, khi xuất hiện pháp luật thực định thì cần có sự hoà đồng giữa pháp luật thực định với “pháp luật tự nhiên”, nói cách khác, pháp luật thực định phải ghi nhận, kế thừa và phát triển phong tục, tập quán để tạo ra một trật tự xã hội mới. Trong số những phong tục, tập quán còn tồn tại ở nước ta cho đến nay, có nhiều phong tục, tập quán tiến bộ góp phần duy trì quản lý xã hội. Vì vậy, khi xây dựng, ban hành pháp luật, nhà nước phải lựa theo phong tục tập quán sao cho pháp luật phù hợp với phong tục tập quán. Khi pháp luật phù hợp phong tục tập quán, pháp luật sẽ dễ dàng đi vào đời sống nhờ thói quen xử sự của người dân. Với ưu thế gần gũi với đời sống cộng đồng, được cả cộng đồng thừa nhận, hình thức thể hiện lại đơn giản, cụ thể, dễ tác động vào nhận thức con người..., nhiều phong tục tập quán, có nội dung phù hợp với pháp luật có thể được vận dụng để bổ sung, hỗ trợ cho pháp luật trong trường hợp thiếu pháp luật, nhất là ở những địa bàn và những lĩnh vực mà pháp luật không thể vươn tới. Như vậy, phong tục, tập quán vừa là tiền đề giúp pháp luật đi vào đời sống xã hội; vừa là một trong những nguồn nội dung của pháp luật; là một công cụ hỗ trợ, bổ sung cho pháp luật trong việc duy trì trật tự xã hội, giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp trong nhân dân.
2.2.2. Tác động của yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo đối với hoạt động xây dựng pháp luật
Việt Nam không những là một quốc gia đa dân tộc mà còn là quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng. Đời sống tâm linh của người Việt rất phong phú. Người kinh có hình thức tín ngưỡng dân gian như: thờ cúng ông bà tổ tiên, thờ Thành Hoàng, thờ những người có công với cộng đồng, dân tộc… Ở Việt Nam cũng tồn tại và phát triển khá nhiều tôn giáo, trong đó phổ biến là Phật giáo và Công giáo. Mỗi tôn giáo có những triết lý riêng về thế giới, con người gồm trách nhiệm, quyền của những người theo tôn giáo đó, cách ứng xử của mỗi tín đồ cần thực hiện trong đời sống đạo của mình. Quan điểm và niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân có vai trò quan trọng và ảnh hưởng nhất định đối với hệ thống pháp luật. Tôn giáo, tín ngưỡng có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì trật tự xã hội, giáo dục, cảm hóa con người sống lương thiện, tránh làm ác. Những điều này có tác dụng thiết thực, hữu dụng cho cuộc sống hiện nay và chúng hoàn toàn phù hợp với nội dung, tinh thần của pháp luật, nhiều tín điều tôn giáo đã được “pháp luật hóa”, trở thành những quy phạm pháp luật được nhà nước thừa nhận và đảm bảo thực hiện. Ở một mức độ nhất định, một số tín điều tôn giáo thống nhất với pháp luật, hỗ trợ để pháp luật được thực hiện nghiêm minh. Đồng thời, xuất phát từ tình hình thực tế, khi xây dựng pháp luật các chủ thể có thẩm quyền có thể thông qua tôn giáo, tín ngưỡng để phát hiện ra những bất cập, thiếu sót trong hệ thống pháp luật hiện hành hoặc dự báo trước được những nguy cơ có thể xảy ra để kịp thời điều chỉnh, hoàn thiện trong quá trình xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.
Thực tiễn trên thế giới và Việt Nam cho thấy không có hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo nào đứng ngoài pháp luật Nhà nước.
2.3. Yếu tố thông tin đại chúng
2.3.1. Thông tin đại chúng tác động đến hoạt động xây dựng pháp luật
Thứ nhất, các phương tiện thông tin đại chúng tác động tới nhận thức của chủ thể về tầm quan trọng của hoạt động xây dựng pháp luật, tạo cơ sở thông tin để các tầng lớp xã hội tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật. Các phương tiện này cung cấp thông tin tương đối đầy đủ và đa dạng về các sự việc, sự kiện, hiện tượng pháp lý xảy ra trong đời sống chính trị, xã hội, pháp luật; cung cấp những tri thức, hiểu biết pháp luật cần thiết cho các chủ thể của hoạt động xây dựng pháp luật, phản ánh hoạt động tiếp xúc cử tri của các đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp...
Thứ hai, các phương tiện thông tin đại chúng giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tập hợp thông tin, xử lý và tiếp thu có chọn lọc các ý kiến xác đáng phục vụ cho việc sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật. Bằng cách đăng tải những thông tin về chính sách pháp luật của nhà nước, các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật mới, đưa thông tin đó nhanh chóng đến được với đông đảo các tầng lớp nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng đã tạo nên diện thành ngôn luận công khai để các chủ thể hoạt động xây dựng pháp luật có thể tham gia bình luận, phân tích, đóng góp ý kiến.
Thứ ba, các phương tiện thông tin đại chúng góp phần đấu tranh lại các âm mưu phá hoại, các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, bịa đặt của các thế lực thù địch về nội dung, bản chất hệ thống pháp luật của nhà nước, cùng cố niềm tin của nhân dân vào bản chất ưu việt trong hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa.
2.3.2. Tác động của thông tin đại chúng trong hoạt động xây dựng pháp luật tại Việt Nam
Tại Việt Nam, cùng với quá trình đổi mới đất nước, tại các địa phương, đơn vị, tổ chức, số lượng chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó, nhiều hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra với quy mô lớn hơn trước, thu hút đông đảo tín đồ và người dân tham dự. Vì vậy, thông tin đại chúng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động xây dựng pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng khiến tôn giáo, tín ngưỡng đều đóng góp tích cực vào đời sống xã hội, được nhân dân và Nhà nước trân trọng.
Theo đó, Việt Nam tuyên bố trên nhiều phương tiện thông tin về việc không lấy tôn giáo nào làm quốc giáo, tất cả các tôn giáo đều bình đẳng và phát triển hài hoà. Bên cạnh đó, nhiều cuộc họp tại nhiều địa phương, nhiều cơ quan các cấp được tổ chức, bàn luận, giao nhiệm vụ và thông báo kết luận công khai trên truyền hình hoặc báo chí chính thống. Cụ thể, thực trạng tại Việt Nam vẫn còn những đối tượng lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước; chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Các phương tiện truyền thông cần phát huy hơn nữa vai trò của mình trong việc tuyên truyền về chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; thành tựu đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở trong nước. Báo chí, truyền hình... cần góp phần giải thích, làm rõ, phản bác các thông tin sai lệch, xuyên tạc về tình hình đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. việc tuyên truyền về tôn giáo, nhân quyền trên báo chí là vấn đề được Đảng, Nhà nước rất quan tâm. Công bố thông tin về tôn giáo, nhân quyền được Bộ Thông tin và truyền thông tổ chức hàng tháng, đã và đang cung cấp nhiều thông tin, cơ sở dữ liệu để lãnh đạo, phóng viên, các cơ quan báo chí nắm được vấn đề, thông tin kịp thời đến dư luận. Phóng viên các cơ quan báo chí đã trao đổi, đề xuất cách thức tuyên truyền hiệu quả về nhân quyền, tôn giáo; phản bác các luận điệu xuyên tạc về tôn giáo, nhân quyền trên báo chí, phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội. Ban Tôn giáo Chính phủ cũng ra mắt Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam”. Sách trắng là tài liệu chính thống, cung cấp thông tin đầy đủ về chính sách tôn giáo, đời sống tôn giáo ở Việt Nam. Tất cả đều nhằm tới việc tác động tích cực đến nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân, thu thập, xử lý thông tin nhằm xây dựng pháp luật về tôn giáo tín ngưỡng tại Việt Nam một cách hoàn thiện nhất.
2.4. Dư luận xã hội
2.4.1. Dư luận xã hội tác động đến hoạt động xây dựng pháp luật
Thứ nhất, dư luận xã hội là sự thể hiện lợi ích chung thông qua tiếng nói chung của nhân dân, là điều kiện cần thiết để hết tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ, mở rộng nền dân chủ xã hội, tích cực tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật. Các tầng lớp nhân dân là chủ thể rộng rãi của hoạt động xây dựng pháp luật. Hiến pháp cũng đề cao quyền và lợi ích của nhân dân và đề ra những cơ chế bảo đảm cho việc thực thi quyền lực nhà nước nhằm phục vụ cho lợi ích của nhân dân và luôn nằm dưới sự kiểm soát của nhân dân thông qua bầu cử.
Thứ hai, dư luận xã hội là nguồn thông tin phản hồi có ý nghĩa rất quan trọng và thiết thực đối với quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, đối với việc ban hành các quyết định của các cá nhân, nhà chức trách của thẩm quyền. Để được các văn bản pháp luật sát thực tế, có tính khả thi cao, trước khi xây dựng, soạn thảo các dự án luật hay ban hành các quyết định, các cơ quan lập pháp, cấp phát quản lý phải nắm bắt được thực trạng tư tưởng, tâm lý của các đối tượng xã hội chịu tác động trực tiếp của các văn bản quy phạm pháp luật. Mọi chủ trương, chính sách pháp luật khó có thể trở thành hiện thực nếu không hợp lắm, không được nhân dân ủng hộ. Bên cạnh đó, việc thu thập các thông tin phản hồi từ dư luận xã hội lại càng quan trọng. Mọi vướng mắc, lịch lạc trong quá trình triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật do nhiều yếu tố khó lường đều được bộc lộ qua dư luận xã hội. Đây là một trong những cơ sở thông tin phản hồi giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đưa ra các văn bản, quyết định phù hợp. Ngoài ra, dư luận xã hội có tác dụng phát hiện những thiếu hụt, những khe hở trong các văn bản quy phạm pháp luật, giúp cho nhà nước có biện pháp sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh kịp thời.
Thứ ba, dư luận xã hội có sức mạnh rất to lớn trong việc định hướng và điều chỉnh hành vi, hoạt động của các thành viên trong xã hội. Trong hoạt động xây dựng pháp luật, các cá nhân, tổ chức có thẩm quyền với tư cách chủ thể xây dựng pháp luật cần phải lắng nghe dư luận xã hội một cách nghiêm túc và phân tích khoa học để rút ra những kết luận chính xác về thực trạng của những lĩnh vực quan hệ xã hội đang cần có pháp luật điều chỉnh.
2.4.2. Tác động của dư luận xã hội trong hoạt động xây dựng pháp luật tại Việt Nam
Theo đó, dư luận xã hội gắn với sự định hướng, ý chí của cộng đồng nên tác động mạnh mẽ đến hành vi của con người. Thực tiễn xã hội đã minh chứng một vài cá nhân nào đó có thể trong chừng mực nhất định không sợ sự trừng phạt của pháp luật nhưng lại sợ sự phê phán, lên án của dư luận xã hội, của cộng đồng tôn giáo. Trong xã hội có nền dân chủ càng rộng rãi, dư luận xã hội được coi là phương tiện để kiểm tra xã hội đối với ý thức pháp luật và hành vi pháp luật của mọi người. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam ghi nhận “chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc của con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Với điều kiện kinh tế, xã hội, dân cư, địa lý, … lối sống của người VN cũng mang tính chặt chẽ, sự liên kết giữa các thành viên không chỉ bằng mối quan hệ thông qua các tổ chức, đoàn thể mà còn qua các phong tục, hủ tục của các dân tộc và pháp luật là công cụ quản lý xã hội hữu hiệu. Vì thế, nhà nước, chính quyền cần lắng nghe dư luận xã hội để xây dựng pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng một cách hợp tình, hợp lý.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngọ Văn Nhân, Phan Thị Luyện, (2022), “Giáo trình Xã hội học pháp luật”, Nxb. Tư pháp;
2. Nguyễn Văn Đồng, Hà Thị Khuyên, (2022), “Quan hệ giữa pháp luật và tôn giáo ở Việt Nam”, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam, truy cập liên kết: https://lsvn.vn/quan-he-giua-phap-luat-va-ton-giao-o-viet-nam1656693393.html thời gian 03/2024;
3. Nguyễn Ngọc Đoan, (2003), “Tập tục với pháp luật”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (12);
4. Nguyễn Lê Thảo Ngân, (2016), “Pháp luật với đạo đức, tôn giáo, tập tục trong quản lý xã hội”, truy cập liên kết: https://truongchinhtri.binhthuan.dcs.vn/Tin-tuc/post/17521/phap-luat-voi-dao-duc-ton-giao-tap-tuc-trong-quan-ly-xa-hoi# thời gian tháng 03/2024;
5. Nguyễn Thị Tố Uyên, (2023), “Một số vấn đề về mối quan hệ giữa pháp luật và tôn giáo ở Việt Nam hiện nay”, truy cập liên kết: https://cssh.vinhuni.edu.vn/mot-so-van-de-ve-moi-quan-he-giua-phap-luat-va-ton-giao-o-viet-nam-hien-nay-c5l0v0p0a90822.html thời gian tháng 3/2024;
6. Nguyễn Anh Cường, (2023), “Những chuyển biến lớn trong pháp luật để đảm bảo tự do tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam”, Tạp chí Công thương;
7. Phạm Thị Duyên Thảo, (2021), “Xã hội học xây dựng pháp luật”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp;
8. Ngọc Bích, (2023), "Phát huy hơn nữa vai trò của báo chí trong tuyên truyền về tôn giáo và nhân quyền", truy cập liên kết: https://chinhsachcuocsong.vnanet.vn/phat-huy-hon-nua-vai-tro-cua-bao-chi-trong-tuyen-truyen-ve-ton-giao-va-nhan-quyen/14140.html.
TS. Nguyễn Thu Huyền
Khoa Nhà nước và Pháp Luật - Học viện Hành chính Quốc gia