Nâng cao chất lượng việc xây dựng và ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong phòng, chống tham nhũng
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân phải được xây dựng và thực hiện theo một quy trình hết sức chặt chẽ, từ khâu đề xuất nội dung, chương trình ban hành nghị quyết; dự báo, đánh giá tác động; soạn thảo, lấy ý kiến tham gia; thẩm định, thẩm tra; thảo luận, quyết định ban hành; tổ chức thực hiện; theo dõi, giám sát việc tổ chức thực hiện, phát hiện những khó khăn, vướng mắc, hạn chế để tập trung tháo gỡ, đưa nghị quyết về các biện pháp phòng, chống tham nhũng đi vào cuộc sống. Muốn vậy, nghị quyết của HĐND cấp tỉnh phải được thực hiện theo một quy trình hết sức chặt chẽ, có thể theo các bước sau:
Một là, phải phát hiện vấn đề cần ban hành nghị quyết. Việc này có thể do Thường trực HĐND, Ủy ban nhân dân, các cơ quan chức năng phát hiện đề xuất. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, các biện pháp phòng, chống tham nhũng, có rất nhiều nội dung cần được quyết định, song HĐND cùng một lúc không thể quyết định tất cả, vì ngoài việc tổ chức chuẩn bị để HĐND ra quyết định thì các nguồn lực đảm bảo để thực hiện nghị quyết, trong đó yếu tố ngân sách là hết sức quan trọng, trong khi ngân sách đang rất hạn hẹp thì cũng không thể ban hành quá nhiều nghị quyết. Cho nên ở khâu này, xác định đúng vấn đề cần ưu tiên để ban hành nghị quyết là việc đáng quan tâm nhất. Nội dung được lựa chọn cần thỏa mãn các yêu cầu: Đáp ứng được nguyện vọng của đa số nhân dân; nhằm thể chế hóa các đường lối chủ trương chính sách của Đảng; đảm bảo tính cần thiết, khả thi, phù hợp với thực tiễn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng của địa phương… Để nâng cao chất lượng sáng kiến chính sách hay phát hiện vấn đề cần ban hành nghị quyết cần phải thực hiện một số giải pháp sau:
- Chương trình xây dựng nghị quyết chuyên đề của HĐND cấp tỉnh phải được đưa vào kế hoạch sớm, phân công cụ thể cho cơ quan chức năng chịu trách nhiệm chuẩn bị và cơ quan phối hợp (nếu có) kiên quyết không đưa vào chương trình kỳ họp những nghị quyết đề xuất bổ sung muộn, thời gian chuẩn bị không bảo đảm và sẽ ảnh hưởng đến chất lượng ban hành. Bên cạnh, các nghị quyết chuyên đề phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương. Đặc biệt, phải làm rõ mục đích của việc ban hành nghị quyết, đối tượng và mức độ tác động đến đối tượng, các nguồn lực, khả năng của địa phương bảo đảm nghị quyết được thực thi và những tác động tiêu cực có thể xảy ra.
- Thường trực HĐND cấp tỉnh sớm phân công định hướng cho các Ban chủ động tiến hành các hoạt động giám sát khảo sát để thu thập lấy thông tin thực tiễn liên quan đến lĩnh vực sẽ ban hành nghị quyết chuyên đề. Đối với những vấn đề lớn, Thường trực HĐND tổ chức khảo sát chuyên đề, những vấn đề liên quan định hướng đến số đông nhân dân thì tổ chức tiếp xúc cử tri chuyên đề, để lấy ý kiến các nhà khoa học và các đối tượng chịu sự tác động hoặc tổ chức tham vấn lấy ý kiến nhân dân.
- Thường trực HĐND cấp tỉnh và các Ban của HĐND chủ động xác định rõ nội dung văn bản quy phạm pháp luật để ban hành nghị quyết HĐND tỉnh và cập nhật văn bản luật và các chính sách do Trung ương ban hành, tăng cường khảo sát giám sát thực tế, tiếp xúc cử tri, nắm bắt thông tin phục vụ công tác thẩm tra kết hợp với quá trình giám sát việc thi hành nghị quyết. Qua đó, phát hiện vấn đề mới cần được điều chỉnh bằng nghị quyết. Thường trực HĐND, UBND sớm xác định thời gian dự kiến trình HĐND để phân công cơ quan liên quan chuẩn bị cung cấp đầy đủ các tài liệu văn bản liên quan cho các thành viên Ban nghiên cứu, giao trách nhiệm cụ thể cho từng thành viên Ban tham gia đi sâu nghiên cứu, khảo sát thực tế, có ý kiến phản biện để thẩm tra và chuẩn bị báo cáo. Báo cáo thẩm tra của các Ban phải làm rõ quan điểm nội dung đồng tình, nội dung chưa đồng tình, nội dung cần bổ sung và nêu rõ lý do.
- Cần đổi mới quy trình quyết nghị tại kỳ họp theo hướng giảm thời gian đọc tài liệu, nghe báo cáo tại hội trường, tăng cường thời gian thảo luận. Chủ tọa kỳ họp cần làm rõ mục đích sau khi ban hành nghị quyết chuyên đề, đối tượng chịu sự tác động, mức độ tác động tích cực và những ảnh hưởng tiêu cực khi thực hiện nghị quyết, nguồn lực thực hiện hay tính khả thi của nghị quyết... Những nội dung còn có ý kiến khác nhau được tách ra trao đổi làm rõ đến khi đạt thống nhất cao. Người đứng đầu cơ quan được phân công trình dự thảo nghị quyết, có thể trình bày thêm những vấn đề liên quan mà cấp tỉnh HĐND quan tâm, để các đại biểu quyết nghị.
Hai là, dự thảo nghị quyết về các biện pháp phòng, chống tham nhũng thường được giao cho một cơ quan chuyên môn chủ trì có sự phối hợp của các cơ quan khác. Để khâu dự thảo nghị quyết có chất lượng, cơ quan chủ trì cần lựa chọn người có chuyên môn sâu, am hiểu pháp luật và thực tiễn thực hiện. Phải đảm bảo nghị quyết được dự thảo đáp ứng giải quyết được các yêu cầu do thực tiễn đặt ra, phù hợp với các quy phạm pháp luật, có đủ nguồn lực để thực hiện.
Ba là, cần tham vấn ý kiến các cơ quan chức năng và các đối tượng chịu tác động của nghị quyết về các biện pháp phòng, chống tham nhũng. Bước này chủ yếu do cơ quan soạn thảo thực hiện, với mục đích là nghị quyết được ban hành phải phù hợp với thực tiễn và nguyện vọng của người dân, có tính thống nhất đồng bộ với các nghị quyết khác. Khi cần thiết cơ quan thẩm tra cũng tổ chức tham vấn để thu thập thêm thông tin làm cơ sở cho phản biện trong thẩm tra.
Bốn là, nâng cao chất lượng thẩm định, thẩm tra của cơ quan tư pháp và các ban HĐND cấp tỉnh. Thẩm định do cơ quan tư pháp thực hiện với mục đích nghị quyết ban hành phải đảm bảo thể thức, phù hợp với các quy định của pháp luật. Còn thẩm tra của các ban HĐND nhằm giúp cho HĐND bàn bạc thảo luận để quyết định, trong đó các kiến nghị, đề xuất về những nội dung chưa phù hợp, thiếu tính khả thi hoặc những nội dung còn có ý kiến khác nhau. Chính vì vậy, một trong những giải pháp mà HĐND tỉnh đã áp dụng là các ban HĐND cần tham gia ngay từ đầu và trong suốt quá trình xây dựng dự thảo nghị quyết về các biện pháp phòng, chống tham nhũng cùng cơ quan soạn thảo.
Năm là, việc trình HĐND cấp tỉnh tại kỳ hợp để thảo luận, biểu quyết thông qua. Chúng ta đều nhận thấy thông qua nghị quyết tại các kỳ họp HĐND cấp tỉnh là quan trọng nhất và năng lực quyết định của HĐND trước hết phụ thuộc vào năng lực, ý thức trách nhiệm của từng đại biểu HĐND. Để không ngừng nâng cao năng lực cho các đại biểu HĐND, ngoài việc tự thân từng đại biểu phải phát huy vai trò trách nhiệm, tự học hỏi, bồi dưỡng, xâm nhập thực tế thì Thường trực HĐND cấp tỉnh và các cơ quan chuyên trách phải hết sức quan tâm công tác tập huấn, trang bị kiến thức cơ bản cũng như kinh nghiệm, kỹ năng hoạt động, nhất là với các đại biểu mới tham gia khóa đầu. Các cơ quan, đơn vị nơi đại biểu công tác, sinh sống phải có trách nhiệm bố trí thời gian cũng như các điều kiện khác cho đại biểu hoạt động một cách thuận lợi nhất.
Sáu là, việc tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết, đây là nhiệm vụ chủ yếu của Ủy ban nhân dân. Nghị quyết của HĐND tỉnh sau khi ban hành cần phải được các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân liên quan triển khai thực hiện nghiêm túc ngay từ khâu quán triệt, tuyên truyền đến xây dựng kế hoạch, hướng dẫn, bố trí nguồn lực. Có thể nói đây là khâu rất quan trọng, một nghị quyết dù nội dung hết sức đúng đắn, cần thiết nhưng khâu tổ chức thực hiện không tốt chắc chắn sẽ không mang lại kết quả như mong muốn.
Sau cùng là công giám sát quá trình tổ chức thực hiện, sơ kết, tổng kết, đánh giá. Sau khi nghị quyết được ban hành, Thường trực HĐND cấp tỉnh, các Ban, Tổ đại biểu và đại biểu HĐND có nhiệm vụ giám sát quá trình tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành; thông qua đó để đôn đốc các cơ quan chức năng trong việc thực hiện, kịp thời phát hiện những thiếu sót, bất cập để kiến nghị, yêu cầu Ủy ban nhân dân và các cơ quan liên quan có các giải pháp đảm bảo nghị quyết được thực thi có hiệu quả cao nhất. Sau khi ban hành nghị quyết, HĐND cần giao trách nhiệm cho Thường trực HĐND cấp tỉnh và các Ban HĐND tăng cường giám sát, nắm bắt thông tin kịp thời phát hiện những bất cập trong quá trình triển khai thực hiện. Chú trọng thông tin phản hồi của các cơ quan, cá nhân, tổ chức chịu tác động, để kịp thời chỉ đạo đôn đốc, điều chỉnh bổ sung hoặc bãi bỏ các qui định chưa phù hợp, bảo đảm các nghị quyết chuyên đề của HĐND cấp tỉnh phát huy tác dụng tích cực. Tổ chức giám sát, rà soát các nội dung đã ban hành NQ nhưng không còn phù hợp với tình hình hình thực tế, chủ động yêu cầu UBND tỉnh bổ sung sửa đổi hay xây dựng chính sách mới trình HĐND cấp tỉnh hoặc kiến nghị HĐND điều chỉnh nội dung nghị quyết đảm bảo phát huy hiệu quả thiết thực.
Định kỳ phải tiến hành sơ kết, tổng kết để đánh giá kết quả thực hiện, kịp thời rút ra những mặt được cũng như những hạn chế và nguyên nhân. Thông qua giám sát, sơ kết, tổng kết sẽ đề nghị HĐND cấp tỉnh xem xét quyết định bổ sung, sửa đổi, hoặc bãi bỏ những nội dung không phù hợp đảm bảo nghị quyết tiếp tục phát huy hiệu quả. Việc quyết định bổ sung, sửa đổi, bãi bỏ toàn bộ hay một số nôi dung không phù hợp của nghị quyết cũng cần được thực hiện đúng quy trình như ban hành lần đầu.
Như vậy, có thể thấy rằng muốn nâng cao chất lượng các nghị quyết của HĐND hay chính là để nghị quyết sau ban hành sớm đi vào cuộc sống và phát huy được hiệu quả thì cần tuân thủ nghiêm ngặt các bước của quy trình trên, trong đó mỗi bước lại do một hoặc một số cơ quan thực hiện. Chất lượng tổng thể do HĐND quyết định nhưng để có nghị quyết đảm bảo hiệu quả thì chất lượng của các bước nêu trên phải được các cơ quan phụ trách hết sức chú trọng. Ngoài ra, việc nâng cao chất lượng các nghị quyết của HĐND còn cần thêm các yếu tố như phải xây dựng được một đội ngũ tham mưu, giúp việc chuyên sâu, chuyên nghiệp cho Thường trực, các Ban và các vị đại biểu HĐND. Hiện nay, mới chỉ ở HĐND tỉnh có cơ quan tham mưu, phục vụ độc lập, bộ máy khá đồng bộ, còn ở cấp huyện, cấp xã bộ máy tham mưu giúp việc còn bất cập và hạn chế. Trên cơ sở quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các văn bản dưới luật, cần đảm bảo các điều kiện liên quan cho hoạt động của cơ quan HĐND trong việc thực hiện hai chức năng chủ yếu là quyết định những vấn đề quan trọng nhất của địa phương và giám sát việc thực thi pháp luật, các chủ trương, chính sách của Nhà nước và chính quyền địa phương trên địa phương.
Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám sát công tác phòng, chống tham nhũng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Một là, nghiên cứu quy định thẩm quyền của HĐND cấp tỉnh tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao, bổ sung quy định cụ thể về hậu quả pháp lý đối với những trường hợp Tòa án nhân dân hoặc Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp không thực hiện đúng các quy định pháp luật trong tổ chức và hoạt động mà thông qua hoạt động giám sát HĐND đã phát hiện. Hoặc là giới hạn lại thẩm quyền và đối tượng giám sát của HĐND cấp tỉnh, cấp huyện theo hướng HĐND chỉ tập trung giám sát vào đối tượng chủ yếu là Ủy ban nhân dân cùng cấp.
Hai là, cơ cấu hợp lý số lượng đại biểu HĐND cấp tỉnh theo hướng giảm số lượng đại biểu kiêm nhiệm và tăng số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách. Việc xác định số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách ở từng đơn vị hành chính nhiệm kỳ 2021-2026 căn cứ vào quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2019, Nghị quyết số 119/2020/QH14 ngày 19 tháng 6 năm 2020 của Quốc hội về Thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng, Nghị quyết số 131/2020/QH14 ngày 16 tháng 11 năm 2020 của Quốc hội về Tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh. Cụ thể như sau: Đối với cấp tỉnh, số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách giữ chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tối đa là 02 người; số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách giữ chức vụ Trưởng ban, Phó Trưởng ban ở mỗi Ban của Hội đồng nhân dân tối đa là 02 người, trừ Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng. Đối với Thành phố Hồ Chí Minh, số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách giữ chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố tối đa là 03 người; số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách giữ chức vụ Trưởng ban, Phó Trưởng ban và Ủy viên ở mỗi Ban của Hội đồng nhân dân thành phố tối đa là 04 người. Đối với thành phố Đà Nẵng, số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách giữ chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố tối đa là 02 người; số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách giữ chức vụ Trưởng ban, Phó Trưởng ban ở mỗi Ban của Hội đồng nhân dân thành phố tối đa là 03 người. Theo quy định hiện hành thì số lượng đại biểu HĐND cấp tỉnh hoạt động chuyên trách là quá thấp và cần phải tăng thêm. Việc làm này vừa tạo điều kiện để đại biểu HĐND toàn tâm, toàn ý tập trung cho nhiệm vụ của người đại biểu, vừa là giải pháp để khắc phục có hiệu quả tình trạng e ngại, nể nang trong thực hiện chức năng giám sát, đặc biệt là giám sát tại kỳ họp thông qua việc chất vấn và trả lời chất vấn của lãnh đạo Ủy ban nhân dân và người đứng đầu các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Ba là, với số lượng đại biểu HĐND cấp tỉnh như hiện nay, bảo đảm yêu cầu về cơ cấu các thành phần thì việc lựa chọn thành viên các Ban HĐND vừa đảm bảo được năng lực chuyên môn, vừa đảm bảo tính độc lập tương đối và khách quan để thực hiện tốt chức năng thẩm định, giám sát các lĩnh vực chuyên môn được HĐND phân công như giám sát công tác phòng, chống tham nhũng là rất khó. Đối với Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung ương nhiệm kỳ 2021-2026, quy định thành phố trực thuộc trung ương có từ 01 triệu dân trở xuống được bầu 50 đại biểu; có trên 01 triệu dân thì có không quá 85 đại biểu (trước là 95 đại biểu); Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh có 95 đại biểu (nhiệm kỳ liền trước là 105 đại biểu). Đối với Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định tỉnh miền núi, vùng cao có từ 500.000 dân trở xuống được bầu 50 đại biểu; từ 500.000 dân trở lên có tối đa 75 đại biểu (nhiệm kỳ liền trước là 85 đại biểu); tỉnh còn lại có từ 01 triệu dân trở xuống được bầu 50 đại biểu; từ 01 triệu dân trở lên được bầu không quá 85 đại biểu (nhiệm kỳ liền trước là 95 đại biểu). Với số lượng đại biểu như hiện nay, để hoàn thành tốt nhiệm vụ, cần phải tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phục vụ cho đại biểu, bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Bốn là, cần bổ sung quy định biện pháp chế tài cụ thể để bảo đảm các kiến nghị sau giám sát của các cơ quan của HĐND cấp tỉnh được các cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp thu, chấn chỉnh một cách nhanh chóng, kịp thời, tránh tình trạng phải đôn đốc, nhắc nhở nhiều lần như hiện nay.
Năm là, ban hành các quy chế, nội quy liên quan theo thẩm quyền: Trên cơ sở Luật tổ chức chính quyền địa phương, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn về cơ cấu tổ chức và hoạt động của HĐND; chủ động tổ chức rà soát theo thẩm quyền, ban hành các quy chế, nội quy liên quan đến hoạt động của HĐND, bảo đảm tất cả các hoạt động đều được thực hiện theo quy định, quy chế.
Sáu là, bổ sung đối tượng chất vấn của đại biểu HĐND là Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp
Tại điểm a, b, c khoản 1, Điều 5 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND quy định HĐND, Thường trực HĐND, Ban của HĐND giám sát hoạt động của “UBND, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp”. Tuy nhiên, tại điểm đ, khoản 1, Điều 5 quy định: “Đại biểu HĐND chất vấn Chủ tịch UBND, thành viên khác của UBND, Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Thủ trưởng cơ quan thuộc UBND cùng cấp”. Theo Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự, Cục Thi hành án dân sự tỉnh là cơ quan trực thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp. Do vậy, đồng chí Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh không phải là “Thủ trưởng cơ quan thuộc UBND tỉnh” nên không thuộc đối tượng chất vấn của đại biểu HĐND tỉnh. Như vậy trên thực tế, trong giám sát hoạt động của “cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp” trên địa bàn, đại biểu HĐND tỉnh không thể thực hiện chất vấn đối với Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh vì không thuộc đối tượng chất vấn theo quy định tại điểm đ, khoản 1, Điều 5. Vì vậy khi sửa đổi, bổ sung Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND cần bổ sung thêm đối tượng chất vấn của đại biểu HĐND tại điểm đ, khoản 1, Điều 5 đối với “Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp” nhằm đảm bảo giám sát toàn diện đối với hoạt động cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn.
Bảy là, bổ sung thêm đối tượng giải trình tại phiên họp Thường trực HĐND cấp tỉnh
Điều 104 Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực HĐND tỉnh “giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật tại địa phương” và được cụ thể hoá hơn tại điểm b, khoản 1, Điều 5 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND như sau: “Thường trực HĐND giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của HĐND cùng cấp; giám sát hoạt động của UBND, các cơ quan thuộc UBND, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và HĐND cấp dưới...”. Tuy nhiên, Điều 72 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND quy định: “Căn cứ vào chương trình giám sát, Thường trực HĐND yêu cầu thành viên của UBND, Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp giải trình và cá nhân có liên quan tham gia giải trình”. Như vậy, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND quy định Thường trực HĐND tỉnh có thẩm quyền giám sát hoạt động Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp nhưng chỉ được quyền yêu cầu giải trình đối với Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân mà không quy định đối với Thủ trưởng “Cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp” là chưa phù hợp và không thống nhất.
Qua thực tiễn cho thấy, trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong phạm vi thuộc thẩm quyền của thủ trưởng một số cơ quan như Bảo hiểm xã hội, Thuế, Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước và Chủ tịch UBND cấp huyện, thành phố cần thiết phải thực hiện giải trình về “vấn đề mà Thường trực HĐND quan tâm” song thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, địa phương chỉ thuộc đối tượng “tham gia giải trình” chứ không phải đối tượng “giải trình” chính.
Từ những phân tích nêu trên, cần thiết sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 72 theo hướng: Căn cứ vào chương trình giám sát, Thường trực HĐND yêu cầu thành viên của UBND, Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự cùng cấp và cá nhân có liên quan giải trình và tham gia giải trình vấn đề mà Thường trực HĐND quan tâm./.