Ngày 14 tháng 11 năm 2022, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XV đã thông qua Luật Thanh tra năm 2022 số 11/2022/QH15 thay thế Luật Thanh tra năm 2010. Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký Lệnh công bố, Luật có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2023.
Theo đó, Luật Thanh tra năm 2022 quy định:
Thanh tra là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan thực hiện chức năng thanh tra đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Hoạt động thanh tra bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
Thanh tra hành chính là thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý của cơ quan quản lý nhà nước.
Thanh tra chuyên ngành là thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý theo ngành, lĩnh vực.
Vậy hiểu thế nào là hoạt động thanh tra?
Trước hết, có nhiều cách hiểu khác nhau về hoạt động, tùy theo góc độ xem xét:
Dưới góc độ triết học, hoạt động là quan hệ biện chứng của chủ thể và khách thể. Trong quan hệ đó, chủ thể là con người, khách thể là hiện thực khách quan. Ở góc độ này, hoạt động được xem là quá trình mà trong đó có sự chuyển hoá lẫn nhau giữa hai cực “chủ thể - khách thể”.
Dưới góc độ sinh học, hoạt động là sự tiêu hao năng lượng thần kinh và bắp thịt cùa con người khi tác động vào hiện thực khách quan nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.
Dưới góc độ tâm lí học, xuất phát từ quan điểm cho rằng cuộc sống của con người là chuỗi những hoạt động, giao tiếp kế tiếp nhau, đan xen vào nhau, hoạt động được hiểu là phương thức tồn tại của con người trong thế giới…
Như vậy, có thể hiểu hoạt động thanh tra là mối quan hệ tác động qua lại giữa cơ quan thực hiện chức năng thanh tra mà đại diện là Đoàn thanh tra và đối tượng thanh tra nhằm phát hiện hạn chế, bất cập trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền có giải pháp, biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Do đó, hoạt động thanh tra cho phép cơ quan thực hiện chức năng thanh tra đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý của cơ quan quản lý nhà nước hoặc đánh giá việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý theo ngành, lĩnh vực. Tuy nhiên, hoạt động thanh tra cũng có thể gây ra những cản trở, bất lợi cho đối tượng thanh tra. Vì vậy, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đối tượng thanh tra đã được đặt ra trong Luật Thanh tra.
Cần thiết phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng thanh tra
Khoản 9 Điều 2 Luật Thanh tra năm 2022 có quy định: “Đối tượng thanh tra là cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự thanh tra được xác định trong quyết định thanh tra”. Như vậy, đối tượng thanh tra là cơ quan, tổ chức, cá nhân bị xem xét, đánh giá, xử lý trong một hoạt động thanh tra cụ thể. Pháp luật hiện hành quy định hai loại hoạt động thanh tra là thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành; đối tượng thanh tra hành chính và đối tượng thanh tra chuyên ngành cũng khác nhau. Nếu như đối tượng thanh tra hành chính là các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong bộ máy hành chính nhà nước, có mối quan hệ tổ chức với cơ quan quản lý nhà nước, thì đối tượng của thanh tra chuyên ngành có thể là bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, bao gồm cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đơn vị, người có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước có hoạt động thuộc quyền quản lý ngành, lĩnh vực chuyên môn của cơ quan quản lý chuyên ngành.
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng thanh tra đã được quy định trong Luật Thanh tra năm 2022:
Hoạt động thanh tra là hoạt động sử dụng quyền lực nhà nước nên có nguy cơ bị lợi dụng. Trong hoạt động thanh tra, cơ quan thực hiện chức năng thanh tra tiến hành thanh tra, người tiến hành thanh tra (Người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra và thành viên khác của Đoàn thanh tra) là bên sử dụng quyền lực nhà nước, ở “thế mạnh, bậc trên”, được ra các mệnh lệnh, các quyết định mà đối tượng thanh tra, ở “thế yếu, bậc dưới”, buộc phải chấp hành. Vì thế, nếu các mệnh lệnh, quyết định được ban hành một cách tùy tiện sẽ “đẩy” đối tượng thanh tra vào thế bất lợi, thậm chí đường cùng. Mặt khác, người tiến hành thanh tra có thể lợi dụng việc sử dụng quyền lực nhà nước làm lợi cho cá nhân, tạo ra sự không công bằng giữa cá nhân, tổ chức này với cá nhân, tổ chức khác hoặc vì lợi ích của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng thanh tra.
Hoạt động thanh tra có thể gây cản trở, bất lợi cho việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của đối tượng thanh tra. Khi tiến hành cuộc thanh tra chắc chắn sẽ tác động đến hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra, buộc đối tượng thanh tra phải thực hiện thêm những nghĩa vụ hoặc bị hạn chế thực hiện quyền khác so với bình thường. Nếu hoạt động thanh tra không thực hiện theo đúng nguyên tắc hoạt động thanh tra sẽ làm cản trở hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra.
Hoạt động thanh tra có nguy cơ xâm phạm, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của đối tượng thanh tra. Nếu hoạt động thanh tra không thực hiện tuân theo pháp luật, dân chủ, công khai, khách quan, kịp thời, chính xác thì kết luận thanh tra, quyết định xử lý sau thanh tra hoặc quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định kỷ luật…(là những văn bản được ban hành trên cơ sở kết luận thanh tra) sẽ xâm phạm, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng thanh tra, làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của đối tượng thanh tra; gây thiệt hại cho đối tượng thanh tra...
Thực tế trong thời gian qua, đã có không ít tình trạng hoạt động thanh tra gây ảnh hưởng tiêu cực đến đối tượng thanh tra, như: Đoàn thanh tra tỉnh Lai Châu đầu năm 2022 tiến hành thanh tra đột xuất công tác trồng rừng trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2015 đến 2021; Đoàn thanh tra của Bộ Xây dựng về thanh tra tại huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc hồi tháng 3 năm 2019…trong Chỉ thị số 20/2017/CT-TTg ngày 17/5/2017 của Thủ tường Chính phủ về việc chấn chỉnh thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp đã nêu rõ: “…hoạt động thanh tra nói chung và hoạt động thanh tra, kiểm tra chuyên ngành nói riêng vẫn tồn tại những hạn chế, còn những vụ việc gây phiền hà, sách nhiễu doanh nghiệp…”.
Chính vì vậy, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng thanh tra là một biểu hiện cụ thể của thượng tôn pháp luật trong hoạt động thanh tra, là việc tôn trọng, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân, một trong những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
|
|
Bàn về quyền, lợi ích hợp pháp của đối tượng thanh tra trong hoạt động thanh tra |
Luật Thanh tra năm 2022 quy định về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng thanh tra
Luật Thanh tra năm 2022 không quy định cụ thể nguyên tắc và nội dung về bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đối tượng thanh tra, nhưng nhiều quy định đã được thể hiện, đó là:
Một là, quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng thanh tra được bảo vệ thông qua quy định về quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra.
Luật Thanh tra 2022 quy định rõ quyền (tại Điều 92) và nghĩa vụ (tại Điều 93) của đối tượng thanh tra, đối tượng thanh tra có quyền: Giải trình về vấn đề có liên quan đến nội dung thanh tra; khiếu nại quyết định, hành vi của người có thẩm quyền trong hoạt động thanh tra; yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật…Đây là những quyền gắn trực tiếp với hoạt động thanh tra. Quyền giải trình giúp đối tượng thanh tra có thể làm rõ, làm sáng tỏ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, chấp hành pháp luật của mình. Thông qua quyền giải trình, đối tượng thanh tra cũng có thể phản bác lại những nhận định, đánh giá, kết luật thanh tra bất lợi. Quyền khiếu nại là “quyền bảo vệ quyền” vì hướng tới yêu cầu được khôi phục lại quyền và lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm do các quyết định, hành vi của người tiến hành thanh tra. Nếu nhận thấy trong quá trình thanh tra, người tiến hành thanh tra đã có quyết định hoặc hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình, thì đối tượng thanh tra có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại. Còn quyền yêu cầu bồi thường cho phép đối tượng thanh tra có thể được bồi thường khi hoạt động thanh tra gây ra thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, uy tín…không những thế Luật Thanh tra năm 2022 còn quy định: “Cá nhân là đối tượng thanh tra có quyền tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật của người tiến hành thanh tra theo quy định của pháp luật về tố cáo”. Thực hiện quyền tố cáo của đối tượng thanh tra, trước hết hướng tới bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước. Tuy nhiên, có những hành vi bị tố cáo xâm phạm trực tiếp quyền, lợi ích của đối tượng thanh tra; đối tượng thanh tra thực hiện quyền tố cáo để kịp thời thông báo đến cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo và thông qua việc giải quyết tố cáo để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình.
Hai là, tại Điều 4 Luật Thanh tra năm 2022 quy định nguyên tắc hoạt động thanh tra: “Tuân theo pháp luật, dân chủ, công khai, khách quan, kịp thời, chính xác; Không làm cản trở hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; Không trùng lặp về phạm vi, thời gian giữa các cơ quan thanh tra, giữa cơ quan thanh tra với cơ quan kiểm toán nhà nước; không trùng lặp trong việc thực hiện quyền khi tiến hành thanh tra”.
Các nguyên tắc nhằm bảo đảm cho hoạt động thanh tra khi xem xét, đánh giá đối tượng thanh tra phải tuân theo pháp luật, dân chủ, công khai, khách quan, kịp thời, chính xác qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng thanh tra. Trong đó hai nguyên tắc: không cản trở hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra và không trùng lặp phạm vi, thời gian giữa các cơ quan thanh tra, giữa cơ quan thanh tra với cơ quan kiểm toán nhà nước; không trùng lặp trong việc thực hiện quyền khi tiến hành thanh tra đã thể hiện rõ mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đối tượng thanh tra. Đó chính là bảo vệ quyền, lợi ích của đối tượng thanh tra tránh khỏi sự phiền hà, vừa hạn chế sự lãng phí công sức, thời gian, kinh phí của Nhà nước bởi các cuộc thanh tra trùng lặp, không cần thiết. Khi hoạt động thanh tra “xen vào”, sẽ làm ảnh hưởng, nhưng không được cản trở hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra hay nói cách khác nó chính là nguyên tắc giới hạn sự tác động của thanh tra, nguyên tắc thực hiện quyền trong hoạt động thanh tra và thể hiện sự cam kết trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng thanh tra.
Ba là, Điều 8 Luật Thanh tra năm 2022 quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động thanh tra, đây cũng chính là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng thanh tra. Cụ thể là khoản 1 cấm: “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn thanh tra để thực hiện hành vi trái pháp luật, sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; lạm quyền trong quá trình tiến hành thanh tra”. Đây là quy định cấm đối với người tiến hành thanh tra. Khi thực hiện thanh tra là người thay mặt nhà nước để xem xét, đánh giá, xử lý đối tượng thanh tra. Nếu người tiến hành thanh tra “Thanh tra không đúng thẩm quyền, không đúng với nội dung quyết định thanh tra, kế hoạch tiến hành thanh tra đã được phê duyệt” tức là lợi dụng việc sử dụng quyền lực nhà nước, có những hành vi, sự áp đặt trái pháp luật sẽ gây ra những khó khăn, phiền hà, ảnh hưởng tiêu cực đến đối tượng thanh tra. Không những thế khoản 5 Điều 8 Luật Thanh tra năm 2022 còn quy định cấm “Tiết lộ thông tin, tài liệu liên quan đến cuộc thanh tra khi kết luận thanh tra chưa được công khai”. Điều cấm này bảo đảm cho hoạt động thanh tra diễn ra thuận lợi, khách quan nhưng cũng có thể hạn chế những tác động tiêu cực với đối tượng thanh tra khi những thông tin chưa chính thức gây ra những ảnh hưởng tiêu cực, ảnh hưởng đến uy tín, danh dự đến hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra.
Bốn là, các quy định về công khai, minh bạch bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng thanh tra.
Luật Thanh tra năm 2022 quy định nhiều nội dung về công khai, minh bạch. Trước hết là công khai, minh bạch về Định hướng Chương trình thanh tra và Kế hoạch thanh tra hàng năm. Cụ thể, Tổng Thanh tra Chính phủ xây dựng Định hướng Chương trình thanh tra để Thủ tướng Chính phủ phê duyệt làm căn cứ cho Thanh tra Chính phủ, Thanh tra Bộ, Thanh tra tỉnh xây dựng Kế hoạch thanh tra hàng năm. Kế hoạch thanh tra được gửi cho đối tượng thanh tra, cơ quan kiểm toán nhà nước và cơ quan, tổ chức có liên quan và là một trong những căn cứ để ban hành quyết định thanh tra…Mặt khác, Luật Thanh tra năm 2022 còn quy định: “Đối với cuộc thanh tra theo kế hoạch, quyết định thanh tra phải được gửi đến đối tượng thanh tra và công bố chậm nhất là 15 ngày trước ngày tiến hành thanh tra trực tiếp; Đối với cuộc thanh tra đột xuất, quyết định thanh tra phải được gửi đến đối tượng thanh tra và công bố trước khi tiến hành thanh tra trực tiếp, trừ trường hợp đối với hoạt động thanh tra chuyên ngành, trường hợp phát hiện hành vi vi phạm cần phải tiến hành thanh tra ngay thì việc công bố quyết định thanh tra có thể được thực hiện sau khi lập biên bản về hành vi vi phạm của đối tượng thanh tra; trường hợp đối tượng thanh tra cố tình vắng mặt thì Trưởng đoàn thanh tra lập biên bản có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã và tiếp tục thực hiện thanh tra theo kế hoạch”. Luật Thanh tra năm 2022 cũng quy định trước khi bắt đầu thanh tra trực tiếp, quyết định thanh tra phải được công bố công khai và phải được lập thành biên bản (đối với hoạt động thanh tra chuyên ngành, trường hợp phát hiện hành vi vi phạm cần phải tiến hành thanh tra ngay thì việc công bố quyết định thanh tra có thể được thực hiện sau khi lập biên bản về hành vi vi phạm của đối tượng thanh tra; trường hợp đối tượng thanh tra cố tình vắng mặt thì Trưởng đoàn thanh tra lập biên bản có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã và tiếp tục thực hiện thanh tra theo kế hoạch) và sau khi kết thúc thanh tra, kết luận thanh tra phải được công khai với các hình thức khác nhau.
Với các quy định về công khai, minh bạch trong hoạt động thanh tra giúp đối tượng thanh tra chủ động tham gia vào hoạt động thanh tra, vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đối tượng thanh tra qua việc khẳng định rõ ràng việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, chính sách, pháp luật của đối tượng thanh tra; kể cả trong trường hợp đối tượng thanh tra có vi phạm, có hạn chế, thiếu sót thì kết luận thanh tra cũng chỉ rõ tính chất, mức độ.
Năm là, việc áp dụng các biện pháp “tạm thời” trong hoạt động thanh tra.
Trong hoạt động thanh tra, người tiến hành thanh tra có thể quyết định áp dụng hoặc đề nghị người có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp như tạm giữ đồ vật, giấy phép, chứng chỉ hành nghề, đình chỉ hành vi vi phạm, phong tỏa tài khoản... Áp dụng các biện pháp này ngoài việc tạo thuận lợi cho hoạt động thanh tra, còn có mục đích ngăn chặn ngay hành vi che dấu, cản trở hoạt động thanh tra. Tuy nhiên, khi áp dụng các biện pháp này có thể tác động bất lợi, ảnh hưởng đến đối tượng thanh tra, làm cản trở hoạt động, hạn chế quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng thanh tra. Vì thế, Luật Thanh tra năm 2022 quy định việc áp dụng các biện pháp này chỉ khi thấy cần thiết, đồng thời khi xét thấy không cần thiết áp dụng biện pháp này thì quyết định hoặc kiến nghị hủy bỏ ngay việc áp dụng biện pháp đó. Quy định việc áp dụng hay hủy bỏ các biện pháp “tạm thời” xuất phát từ sự cân nhắc giữa kết quả đạt được của hoạt động thanh tra với quyền và lợi ích chính đáng của đối tượng thanh tra. Việc hủy bỏ ngay việc áp dụng các biện pháp “tạm thời” góp phần giảm thiểu những thiệt hại (nếu có) cho đối tượng thanh tra, duy trì hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra.
Bên cạnh những quy định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng thanh tra thì Luật Thanh tra năm 2022 vẫn còn một số nội dung chưa làm rõ có thể gây bất lợi, xâm phạm quyền, lợi ích của đối tượng thanh tra, như: khoản 3 Điều 59:
“3. Đối với cuộc thanh tra theo kế hoạch, quyết định thanh tra phải được gửi đến đối tượng thanh tra và công bố chậm nhất là 15 ngày trước ngày tiến hành thanh tra trực tiếp”…
Kiến nghị
Mặc dù Luật Thanh tra năm 2022 đã có những sửa đổi, bổ sung nhằm bảo vệ trực tiếp quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng thanh tra, nhưng vẫn còn một số nội dung chưa làm rõ có thể gây bất lợi, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng thanh tra, vì thế cần có hướng dẫn thêm, như:
Một là, khoản 3 Điều 59 Luật Thanh tra năm 2022 quy định:
“3. Đối với cuộc thanh tra theo kế hoạch, quyết định thanh tra phải được gửi đến đối tượng thanh tra và công bố chậm nhất là 15 ngày trước ngày tiến hành thanh tra trực tiếp”.
Quy định như trên có rất nhiều cách hiểu khác nhau sẽ dẫn đến hoạt động thanh tra thực hiện khác nhau và sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đối tượng thanh tra, do vậy cần có hướng dẫn cụ thể thêm.
Hai là, bí mật riêng tư, bí mật kinh doanh của cá nhân, tổ chức là đối tượng thanh tra.
Bảo vệ bí mật riêng tư là quyền được quy định tại Điều 21 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình;…Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn”. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019 và 2022) đã có quy định về bí mật kinh doanh và bảo vệ bí mật kinh doanh. Nhưng trong hoạt động thanh tra, tại khoản 5 Điều 8 Luật Thanh tra năm 2022 chỉ cấm “Tiết lộ thông tin, tài liệu liên quan đến cuộc thanh tra khi kết luận thanh tra chưa được công khai” và theo Quyết định số 774/2020/QĐ-TTg ngày 5/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục bí mật nhà nước thuộc lĩnh vực thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng thì chỉ có: “Kế hoạch tiến hành thanh tra đột xuất trước khi công bố với đối tượng thanh tra theo quy định của Luật Thanh tra; Báo cáo kết quả thanh tra của thành viên Đoàn thanh tra, của Đoàn thanh tra; Nội dung Kết luận thanh tra chưa công khai” được bảo vệ theo chế độ bí mật nhà nước độ mật…chưa có quy định trực tiếp bảo vệ bí mật riêng tư, bí mật kinh doanh của đối tượng thanh tra. Các bí mật này được mỗi cá nhân, tổ chức có trách nhiệm tự mình bảo vệ và được thực hiện biện pháp thích hợp chống lại các hành vi xâm phạm theo quy định của pháp luật. Khi tiến hành thanh tra, các bí mật này đã được cung cấp theo yêu cầu của hoạt động thanh tra thì trách nhiệm bảo vệ được xác định thế nào? Cần có hướng dẫn cụ thể thêm.
Ba là, khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong hoạt động thanh tra.
Điều 94 Luật Thanh tra năm 2022 có quy định quyền của đối tượng thanh tra được “khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của người tiến hành thanh tra và quyết định xử lý về thanh tra theo quy định của pháp luật về khiếu nại khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình; kiến nghị về nội dung trong kết luận thanh tra khi cho rằng nội dung đó chưa chính xác”. Điều 95 của Luật Thanh tra năm 2022 có quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại về hoạt động thanh tra.
Tuy nhiên, quy định chung về khiếu nại và giải quyết khiếu nại cần phải có hướng dẫn rõ hơn vì “hoạt động thanh tra có những đặc thù mang tính nghiệp vụ và cơ chế hoạt động độc lập tương đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước” và như vậy có thể tác động bất lợi đến quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng thanh tra. Ví dụ: Nếu đối tượng thanh tra khiếu nại về việc áp dụng các biện pháp “tạm thời” mà người có thẩm quyền không hoặc chưa xem xét và giải quyết ngay sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra, hay trong trường hợp đối tượng thanh tra có khiếu nại về các quyết định, hành vi của người tiến hành thanh tra mà chưa được xem xét, giải quyết nhưng kết luận thanh tra đã ban hành sẽ không bảo đảm được tính khách quan, chính xác của kết luận thanh tra…./.