Bất cập trong thu hồi tài sản các vụ án tham nhũng, kinh tế

Thứ hai, 28/11/2022 20:40
(ThanhtraVietNam) - Thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế, chức vụ luôn là câu hỏi được người dân quan tâm. Cùng với chủ trương chủ động phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng, công tác thu hồi tài sản tham nhũng ngày càng được nhận thức rõ ràng hơn và được xác định là nhiệm vụ quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

Thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế còn nhiều vướng mắc

Tại Hội nghị Trung ương 3 ngày 21/8/2006, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí - Nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Đảng về công tác phòng, chống tham nhũng và thu hồi tài sản tham nhũng; ngày 07/12/2015, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 50-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng; ngày 03/6/2021, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Kết luận số 05-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 50-CT/TW chỉ ra 07 nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, xử lý, thu hồi tài sản tham nhũng; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII cũng đã đưa ra nhiều chủ trương và giải pháp căn cơ quyết liệt về phòng, chống tham nhũng.

Theo báo cáo của Ban cán sự đảng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao từ tháng 12/2015 đến tháng 3/2020, các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử đã thu hồi tổng số tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án tham nhũng, kinh tế là:18.239.211.000.000 đồng/33.429.125.000.000 đồng, đạt 55%. Các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo đã thu giữ, tạm giữ, kê biên, phong tỏa, ngăn chặn giao dịch tài sản giá trị trên 50.000 tỷ đồng.

Trước năm 2013, tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng trung bình chỉ đạt khoảng 10% trên tổng số phải thu hồi. Đến nay, kết quả bình quân giai đoạn 2013-2020 đạt hơn 26%. Đặc biệt là năm 2019 và năm 2020, khi có sự chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng chống tham nhũng, Ban Chỉ đạo đã thành lập 05 Đoàn kiểm tra tại nhiều địa phương, bộ, ngành để kiểm tra, đánh giá đầy đủ, toàn diện kết quả thu hồi tài sản, từ đó chỉ ra những tồn tại, hạn chế, khó khăn và chỉ đạo khắc phục. Riêng kết quả thu hồi tài sản trong các vụ án kinh tế, tham nhũng do Ban Chỉ đạo Trung ương theo dõi, chỉ đạo năm 2020 thu hồi bằng 61% tổng số đã thu hồi được trước đây.

Mặc dù đạt được những kết quả tích cực nêu trên, song công tác thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế vẫn còn nhiều hạn chế, vướng mắc. Tỷ lệ thu hồi tài sản trong đa số các vụ án tham nhũng có tăng nhưng còn thấp so với số phải thu hồi. Số tiền, tài sản bị thất thoát do tham nhũng rất lớn nhưng tài sản để đảm bảo thi hành án thì nhỏ, chưa có các biện pháp, quy định cụ thể để truy tìm tài sản của người phải thi hành án bị che giấu nguồn gốc. Các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn chưa chú trọng áp dụng kịp thời các biện pháp cưỡng chế, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, thậm chí, trong một số vụ án, vụ việc vẫn còn để xảy ra tình trạng có đối tượng bỏ trốn, tẩu tán tài sản ra nước ngoài. Hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản tham nhũng còn có những khó khăn, vướng mắc, cụ thể như sau: 

Thứ nhất, có thể khẳng định tiền, tài sản liên quan đến hành vi tham nhũng nhưng chưa thể truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội được vì nhiều lý do khác nhau như đối tượng phạm tội chết, mất tích hoặc bỏ trốn... thì theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021), sẽ áp dụng biện pháp đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ điều tra, truy nã... Như vậy, sẽ chưa thể hoặc không thể thu hồi ngay được số tiền, tài sản này.

Thứ hai, liên quan đến vấn đề xác định nguồn gốc tài sản để thực hiện việc tịch thu, thu hồi tiền, tài sản cho Nhà nước, hệ thống pháp luật hiện hành quy định nghĩa vụ chứng minh nguồn gốc tiền, tài sản thuộc về cơ quan có thẩm quyền (cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thanh tra). Quy định này của hệ thống pháp luật dẫn đến thực tế là hầu hết các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế người phạm tội luôn tìm thủ đoạn chuyển các tài sản liên quan đến tội phạm thành tài sản khó hoặc không thể xác định được nguồn gốc do phạm tội mà có và do đó, việc thu hồi tiền, tài sản rất khó thực hiện được.

Thứ ba, trường hợp qua hoạt động kiểm soát tài sản, thu nhập mà phát hiện tài sản, thu nhập đó có dấu hiệu từ hành vi tham nhũng, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định cơ quan có thẩm quyền sẽ chuyển vụ việc cho cơ quan chức năng hoặc/và yêu cầu cơ quan chức năng hoặc cá nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại, chuyển dịch tài sản. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 chưa quy định các biện pháp ngăn chặn khi phát hiện tài sản có dấu hiệu tham nhũng qua việc kiểm soát tiền, tài sản của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị và như vậy, cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức không có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn cần thiết để ngăn ngừa việc tẩu tán, chuyển dịch hoặc hủy hoại tài sản.

Thứ tư, thực tiễn các tội phạm tham nhũng, kinh tế thường do người có chức vụ, quyền hạn, có trình độ học vấn và chuyên môn nhất định, am hiểu pháp luật, quản lý kinh tế, có khả năng nhận biết những kẽ hở pháp luật, thậm chí có thể can thiệp để cố tình tạo nên những kẽ hở đó; có điều kiện tạo dựng được nhiều mối quan hệ có khả năng che chắn, bảo vệ cho hành vi sai phạm; có sự chuẩn bị chu đáo khi phạm tội, khi thực hiện xong sẽ chủ động xóa hết mọi dấu vết, tiêu hủy giấy tờ, hóa đơn, sổ sách, tẩu tán tài sản do phạm tội mà có. Quá trình thực hiện tội phạm thường là quy trình khép kín, diễn ra lâu năm, có liên quan đến nhiều người và có sự liên kết, thống nhất về mặt lợi ích, có tổ chức chặt chẽ, dẫn đến việc tìm chứng cứ, chứng minh tội phạm và xác minh các tài sản liên quan đến tội phạm gặp rất nhiều khó khăn. Mặt khác, với nền kinh tế và thói quen sử dụng tiền mặt dẫn đến việc khó kiểm soát tài sản, thu nhập cũng như các giao dịch tiền mặt, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân dễ dàng che giấu nguồn gốc bất minh của tài sản và gây khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc lần theo dòng tiền, chứng minh mối liên hệ giữa tài sản và hành vi vi phạm. Bên cạnh đó, việc giải quyết các vụ án hình sự trong một số lĩnh vực đặc thù, nhất là trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, tài chính - ngân hàng, mua sắm công đòi hỏi rất nhiều kết quả giám định tài sản, cần những chuyên gia có trình độ, năng lực mới giải quyết được vụ án. Tuy nhiên, quy trình, quy chuẩn giám định ở một số lĩnh vực này hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu; còn nhiều vướng mắc, chậm trễ trong công tác giám định.

Thứ năm,  đối với tài sản là các dự án bất động sản chưa hoàn thành về pháp lý, tài sản là cổ phần, cổ phiếu... gây khó khăn rất nhiều cho hoạt động thu hồi tài sản. Đồng thời, có một số trường hợp như tài sản ngay tình, khi chưa vi phạm nhưng khi đối tượng xảy ra hành vi vi phạm rất khó cho cho các cơ quan chức năng có thể thu hồi được. Bên cạnh đó, công tác thu hồi tài sản tham nhũng áp dụng các biện pháp kê biên, phong tỏa để ngăn chặn việc tẩu tán tài sản trong các vụ án tham nhũng trong quá trình xử lý vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng mới tập trung vào chứng minh hành vi phạm tội để bảo đảm không oan sai, không bỏ lọt tội phạm nhưng chưa chú trọng, kịp thời áp dụng các biện pháp ngăn chặn việc tẩu tán tài sản.

Kiến nghị thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế 

Một là, hoàn thiện cơ chế và tổ chức thực hiện nghiêm quy định về kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn: Kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn là biện pháp vừa để phòng ngừa tham nhũng, vừa giúp phát hiện, xử lý những cá nhân có hành vi tham nhũng và thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt… Để phát hiện, ngăn chặn những hành vi trái quy định liên quan đến thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, cần thiết phải có các quy định cho phép theo dõi biến động của mọi tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở mọi thời điểm (kể cả việc tăng, giảm tài sản, thu nhập). Kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn nhằm tạo cơ sở quan trọng cho việc minh bạch hóa thu nhập và tài sản của người có chức vụ, quyền hạn và là một giải pháp hết sức quan trọng nhằm phòng ngừa và phát hiện tham nhũng cũng như góp phần nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản cho Nhà nước.

Hai là, nghiên cứu, hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp để tăng hiệu quả chế tài xử lý tham nhũng: Cần phải thừa nhận rằng, việc điều tra, chứng minh tài sản bất minh để qua đó buộc tội người có hành vi tham nhũng và để thu hồi tài sản tham nhũng ở bất cứ quốc gia nào đều rất khó khăn và tốn thời gian, dẫn đến nhiều vụ việc tham nhũng bị bỏ sót hoặc tài sản tham nhũng không thu hồi được. Do vậy, kinh nghiệm lập pháp một số nước cho thấy, họ đã hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp như một giải pháp để đấu tranh hiệu quả đối với tội phạm tham nhũng. Thực chất, hình sự hóa hành vi này là đảo ngược trách nhiệm chứng minh; nghĩa là trách nhiệm chứng minh tài sản có bất minh hay không được chuyển từ các cơ quan tố tụng sang người nắm giữ tài sản. Nếu cán bộ, công chức không chứng minh được tài sản của mình là hợp pháp thì tài sản đó là tài sản tham nhũng.

Ba là, nghiên cứu, xây dựng cơ chế tịch thu, thu hồi tài sản thông qua việc khởi kiện dân sự, để thực hiện được nội dung này, cần nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự theo hướng: Sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức được giao quản lý tài sản thuộc sở hữu nhà nước trong việc khởi kiện vụ án dân sự để đòi lại những tài sản thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức nhưng bị hành vi tham nhũng xâm phạm; trong trường hợp cơ quan, tổ chức sở hữu tài sản nhà nước bị tham nhũng không khởi kiện vụ án, cho phép bên thứ ba khởi kiện vụ án dân sự đòi lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại tài sản này.

Bốn là, nâng cao tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức có chức năng thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế. Xây dựng đội ngũ cán bộ trong công tác Phòng chống tham nhũng nói chung và thu hồi tài sản tham nhũng nói riêng vững chuyên môn nghiệp vụ, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Năm là, bên cạnh với việc hoàn thiện pháp luật trong nước, cần tăng cường việc ký kết, tham gia các điều ước quốc tế về thu hồi tài sản tham nhũng, nhất là cơ chế tương trợ tư pháp về hình sự giữa các quốc gia trong việc phong tỏa, thu hồi tài sản của người phạm tội đã tẩu tán ở nước ngoài./.

Phạm Hương
Ý kiến bình luận
Họ và tên *
Email *
Nội dung bình luận *
Xác thực *

Bản quyền thuộc Tạp chí Thanh tra