Giải pháp phòng, chống tham nhũng khu vực doanh nghiệp

Thứ sáu, 23/09/2022 10:38
(ThanhtraVietNam) - Doanh nghiệp có vị trí, vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là tế bào của nền kinh tế, thu hút hàng chục triệu lao động, hàng ngày, hàng giờ tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra các hàng hóa, sản phẩm giá trị, thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống Nhân dân. Ở nước ta hiện nay có tới hàng chục vạn doanh nghiệp với quy mô khác nhau, trong các lĩnh vực, thuộc các thành phần kinh tế, đã, đang có những đóng góp rất to lớn cho nền kinh tế quốc dân, nhất là trong điều kiện hội nhập và phát triển. Vì vậy nhà nước ta cần phải có chính sách, chủ trương, các quy định và những biện pháp tích cực, hiệu quả tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ, lành mạnh, minh bạch, không tham nhũng, tiêu cực.

1. Thực trạng tham nhũng khu vực doanh nghiệp

Mặc dù có vai trò và đóng góp hết sức quan trọng trong nền kinh tế, tuy nhiên tình trạng vi phạm pháp luật nói chung, tham nhũng nói riêng trong doanh nghiệp ngày càng phát triển, tính chất, quy mô, mức độ phức tạp, nguy hiểm hơn, thể hiện bằng số các vụ việc gia tăng, quy mô lớn, có nhiều người tham gia, liên quan đến những người có chức vụ cao trong bộ máy nhà nước, thủ đoạn thực hiện rất tinh vi, trắng trợn, tài sản tham nhũng lớn, thậm chí rất lớn, gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế, xã hội, lòng tin dẫn đến sự phẫn nộ của người dân, các tầng lớp trong xã hội.

Các vụ việc tham nhũng khu vực doanh nghiệp diễn ra rất nhiều ở tất cả các lĩnh vực, địa phương, bộ ngành, từ trung ương đến cơ sở, trong khu vực nhà nước, có vốn nhà nước, cũng như ngoài nhà nước. Điển hình có các vụ việc tham nhũng lớn, đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng theo dõi, chỉ đạo.

Các hình thức hay biểu hiện tham nhũng trong doanh nghiệp diễn ra rất đa dạng, tinh vi và phức tạp, nhưng có một số dạng phổ biến, điển hình sau:

Thứ nhất, doanh nghiệp bắt tay, cấu kết với người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước để có được ưu thế cạnh tranh, giành được những hợp đồng béo bở, hoạt động không lành mạnh, thiếu trong sáng, nhằm chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, tổ chức, công dân. Đó là biểu hiện điển hình doanh nghiệp là sân sau, cánh hầu, lợi ích nhóm với các quan chức nhà nước.

Ngoài ra còn có sự cấu kết giữa các doanh nghiệp với nhau để tạo lợi thế, thông đồng, cạnh tranh không lành mạnh. Sự cấu kết diễn ra hết sức đa dạng, tinh vi giữa các loại hình doanh nghiệp, bên trong, bên ngoài, trung ương, địa phương, trong nước và nước ngoài...

Thứ hai, tham nhũng diễn ra trong nội bộ doanh nghiệp, vì doanh nghiệp là nơi quản lý tiền, tài sản, con người, có nơi quản lý với quy mô, mức độ, phạm vi rất rộng, lớn. Do có rất nhiều cơ chế, quy định quản lý phức tạp, có nhiều sơ hở nên người có chức vụ, quyền hạn đã lạm dụng để tham nhũng, tiêu cực, vụ lợi thể hiện bằng các hành vi tham ô, hối lộ, cố ý làm trái, lạm dụng tín nhiệm... Tuy nhiên, các hành vi tham nhũng trong doanh nghiệp thuộc khu vực công diễn ra đa dạng, phức tạp hơn so với tham nhũng trong doanh nghiệp tư. Vì trong doanh nghiệp tư nhân, cơ chế quản lý rất chặt chẽ.

Đối với doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, sẽ dẫn đến nguy cơ tham nhũng ngày càng tinh vi, phức tạp. Trong Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 đã chỉ rõ nguy cơ này: “Trong những năm tới, cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý, chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước … sẽ nảy sinh những điều kiện mới cho tham nhũng ngày càng tinh vi, phức tạp. Mặt khác, việc hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng cũng tạo cơ hội phát sinh những vụ việc tham nhũng với phạm vi rộng hơn, khó phát hiện và xử lý hơn do có sự tham gia của các cá nhân, tổ chức nước ngoài”. Doanh nghiệp nhà nước được giao quản lý, sử dụng và khai thác một nguồn lực rất lớn về vốn, tài nguyên thiên nhiên và lao động. Đây chính là khu vực cần tập trung mạnh mẽ trong việc phòng, chống tham nhũng.

Bên cạnh đó cơ chế quản lý đối với doanh nghiệp khu vực tư hoặc trong nội bộ do có sự khác nhau, xung đột lợi ích giữa chủ sở hữu doanh nghiệp với người quản lý, điều hành nên tham nhũng cũng diễn ra bằng các hành vi như tham ô, hối lộ, cố ý làm trái, lạm dụng tín nhiệm...

Thực trạng tham nhũng diễn ra trong khu vực doanh nghiệp có nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan, trực tiếp và gián tiếp. Nhưng có một số nguyên nhân chủ yếu sau:

 - Cơ chế quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp, đặc biệt là đối với doanh nghiệp nhà nước còn nhiều bất cập, hạn chế, quy định pháp luật vừa thiếu, vừa thừa, lạc hậu, nhiều kẽ hở dẫn đến lợi dụng, lạm dụng. Trong quản lý nhà nước chưa tách bạch giữa quản lý hành chính và quản lý kinh tế. Các doanh nghiệp trực thuộc bộ ngành, địa phương còn nhiều. Các doanh nghiệp của cơ quan đảng, cơ quan thuộc khối nội chính chiếm tỷ lệ đáng kể. Các loại hình doanh nghiệp nhà nước, có vốn nhà nước đang có sự thay đổi rất lớn, phức tạp, nên cơ chế quản lý chưa theo kịp, nhiều sơ hở. Sự phân định phạm vi trách nhiệm giữa người chủ sở hữu, đại diện chủ sở hữu, người quản lý trong doanh nghiệp nhà nước không rõ ràng, minh bạch. Có sự can thiệp, chỉ đạo, chi phối quá sâu từ bên ngoài đối với hoạt động của doanh nghiệp.

 Quá trình đổi mới, sắp xếp, kiện toàn doanh nghiệp diễn ra phức tạp, có nhiều sơ hở, yếu kém, lúng túng, thậm chí luẩn quẩn. Cơ chế quản lý, quản trị doanh nghiệp còn nhiều bất cập, thiếu chặt chẽ, lỏng lẻo, có nhiều kẽ hở. Cơ chế xin cho, không khách quan, không công bằng trong hoạt động của doanh nghiệp vẫn chi phối mạnh mẽ. Quá trình cổ phần hóa trong các doanh nghiệp nhà nước diễn ra chậm, thiếu công khai, không minh bạch, có nhiều tiêu cực, vi phạm. Đối với doanh nghiệp lớn dường như các cơ quan nhà nước không theo dõi, quản lý, kiểm soát được. Thậm chí có nơi là những vùng cấm, bất khả xâm phạm, đặc biệt là những công ty, tổng công ty, tập đoàn lớn do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.

Thực tiễn thời gian qua cho thấy đa số các vụ việc tham nhũng, lãng phí, tiêu cực lớn xảy ra đều liên quan đến doanh nghiệp nhà nước. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này đã được xác định trong Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/6/2017 Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước: “Thể chế quản lý, quản trị doanh nghiệp nhà nước không ít hạn chế, yếu kém, tạo kẽ hở để hình thành “nhóm lợi ích”, thao túng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, tham nhũng, lãng phí”.

Các quy định về quản lý doanh nghiệp tư nhân chưa phù hợp, vừa thiếu, vừa thừa, vừa lạc hậu, dẫn đến kìm hãm, cản trở, gây khó khăn, nhưng lại có nhiều kẽ hở, dẫn đến việc lợi dụng, lạm dụng. Trong hoạt động chấp hành không thực hiện nghiêm các quy định hiện hành trong quản lý, trong phòng, chống tham nhũng, nhất là việc công khai, minh bạch.

Tình trạng cấu kết, móc nối, thiết lập nhóm lợi ích, tạo ra sân trước, sân sau giữa người có chức, có quyền trong bộ máy nhà nước với doanh nghiệp diễn ra khá phổ biến, hết sức nghiêm trọng.      

 - Trong hoạt động quản lý đối với doanh nghiệp, trong doanh nghiệp thiếu công khai, minh bạch, không thực hiện đúng quy định của pháp luật. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức chưa thực hiện đúng, đầy đủ chức trách, nhiệm vụ được giao, thậm chí lạm dụng vì mục đích cá nhân, vụ lợi. Người đứng đầu doanh nghiệp nhà nước không chịu trách nhiệm toàn diện, đầy đủ về hoạt động của mình, nhất là việc quản lý kém hiệu quả, hoạt động thua lỗ. Người lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhiều trường hợp yếu năng lực, phẩm chất đạo đức yếu, kém. 

 - Cơ chế về kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán đối với doanh nghiệp còn hạn chế. Việc tổ chức các hoạt động này từ bên ngoài thiếu thường xuyên, liên tục, không kịp thời, thậm chí còn có tình trạng lợi dụng, lạm dụng. Việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát từ bên trong cũng chưa được chú trọng đúng mức, nên vi phạm, tham nhũng chậm phát hiện, xử lý không nghiêm minh.

leftcenterrightdel

Cần có chính sách, chủ trương, các quy định và những biện pháp tích cực, hiệu quả tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển lành mạnh, minh bạch, không tham nhũng, tiêu cực.

 

2. Giải pháp về phòng, chống tham nhũng khu vực doanh nghiệp

Thời gian qua, công tác đấu tranh chống tham nhũng trong khu vực doanh nghiệp thu được những kết quả đáng khích lệ, nhiều vụ việc lớn được phát hiện, xử lý nghiêm minh, thu hồi số lượng lớn tiền, tài sản đã bị chiếm dụng, chiếm đoạt của Nhà nước, tổ chức, cá nhân, được dư luận đồng tình ủng hộ, đánh giá cao. Tuy vậy công tác này cũng còn không ít hạn chế, bất cập. Số các vụ việc chưa phát hiện ra vẫn còn nhiều, các vụ việc phát hiện song xử lý vẫn chưa nghiêm, mức độ hình phạt đối với người có chức vụ, quyền hạn cao chưa tương xứng. Tài sản thu hồi còn hạn chế, số lượng bị thất thoát, tẩu tán nhiều. Nguyên nhân của hạn chế, bất cập này là do các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng đã được áp dụng nhưng mang tính hình thức, chưa thực chất, có nơi không thực hiện đúng, đầy đủ, thiếu nghiêm túc. Việc tổ chức thực hiện pháp luật phòng, chống tham nhũng của các doanh nghiệp còn khác nhau, một số biện pháp phòng ngừa khó thực hiện với doanh nghiệp nhà nước.

Công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong đấu tranh chống tham nhũng đối với khu vực doanh nghiệp, có nơi, có lúc chưa kịp thời, nghiêm minh, còn có tình trạng nể nang, né tránh, còn có vùng cấm, liên quan đến sân trước, sân sau, lợi ích nhóm.

Công tác thanh tra, kiểm tra từ bên ngoài chưa được tiến hành thường xuyên, kịp thời, việc xử lý một số vụ việc còn chưa nghiêm minh, thiếu khách quan. Công tác kiểm tra, kiểm soát trong nội bộ cũng không được thực hiện một cách kịp thời, đầy đủ. Người đứng đầu doanh nghiệp chưa làm hết trách nhiệm của mình trong công tác kiểm tra, kiểm soát trong nội bộ.

Để góp phần nâng cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng trong khu vực doanh nghiệp, tác giả đề xuất một số giải pháp sau:

Một là, hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước trong công tác phòng, chống tham nhũng

- Tập trung rà soát, tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước trong phòng, chống tham nhũng, nhất là về công khai minh bạch trong tổ chức, hoạt động. Bên cạnh đó, cần thiết có quy định riêng về chế tài đối với doanh nghiệp nhà nước trong trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các quy định của các biện pháp phòng ngừa tham nhũng. Vì trong Nghị định số 59/2019/NĐ-CP có đề cập đến thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc thực hiện. Tuy nhiên, khi phát hiện ra sai phạm, cơ chế xử lý trách nhiệm quy định vẫn chưa rõ ràng.

- Cần thống nhất khái niệm về doanh nghiệp nhà nước trong các văn bản pháp luật để xác định rõ trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước trong phòng, chống tham nhũng. Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định về doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp sở hữu nhà nước trên 50% vốn điều lệ. Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định là doanh nghiệp sở hữu 100% vốn nhà nước, Luật Doanh nghiệp 2020 lại quy định giống Luật 2005. Chính vì vậy việc thực hiện trong các loại hình có mức độ khác nhau. Với doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước sẽ thực hiện như cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà nước nói chung. Còn với doanh nghiệp cổ phần có vốn góp của Nhà nước chi phối thì không thể thực hiện như vậy, phải có quy định riêng, có hướng dẫn chi tiết việc thực hiện. Trong đó tập trung làm rõ trách nhiệm của của từng chủ thể có chức vụ, quyền hạn gắn với các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng cụ thể. 

- Bổ sung quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi tham nhũng chưa đến mức xử lý hình sự xảy ra trong doanh nghiệp. Khi xảy ra các vụ việc tham nhũng đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì việc xử lý thực hiện theo pháp luật về hình sự. Khi các hành vi vi phạm này chưa đến mức xử lý hình sự thì phải xử lý nội bộ hoặc xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên hiện nay chưa có cơ chế để xử lý nội bộ trong doanh nghiệp, chưa quy định về xử phạt hành chính hay xử lý kỷ luật với những hành vi này. Vì vậy cần phải bổ sung, hoàn thiện các quy định này. 

Hai là, tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về quản lý, quản trị đối với doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước, theo hướng đầy đủ, chặt chẽ, khách quan, công khai, minh bạch hơn

- Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước, tách bạch quản lý hành chính với quản lý kinh tế, đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, dần dần xóa bỏ cơ chế nội bộ chủ quản, từng bước loại trừ doanh nghiệp trong các cơ quan nội chính, cơ quan đảng... tiếp tục làm rõ trách nhiệm của chủ sở hữu, người đại diện, người quản lý trong doanh nghiệp nhà nước.

- Hoàn thiện quy định về quản lý trên các lĩnh vực, khắc phục hạn chế, bất cập, kẽ hở để lạm dụng, lợi dụng như quy định về quy hoạch, quản lý, sử dụng đất đai, đấu thầu, về các hình thức đầu tư, góp vốn, về quản lý tài sản công... Tiếp tục hoàn thiện quy định về quản lý doanh nghiệp khu vực tư theo hướng đầy đủ, chặt chẽ, phù hợp với xu thế hội nhập, phát triển để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển lành mạnh, đúng hướng, hạn chế tiêu cực, tham nhũng.

- Trên cơ sở quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản có liên quan, căn cứ vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp khu vực tư mà chủ sở hữu, lãnh đạo doanh nghiệp có hướng dẫn cụ thể trong quản lý và phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp mình.

Ba là, quy định cụ thể về thanh tra, kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham nhũng mà Luật Phòng, chống tham nhũng đã xác định

Hướng dẫn cụ thể về thanh tra, kiểm tra trách nhiệm doanh nghiệp trong việc thực hiện biện pháp phát hiện, phòng ngừa và xử lý tham nhũng để làm cơ sở xác định trách nhiệm pháp lý khi doanh nghiệp không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ các biện pháp phòng, chống tham nhũng.

Bốn là, tổ chức thực hiện tốt các quy định phòng, chống tham nhũng liên quan đến doanh nghiệp, bao gồm việc thực hiện của chủ thể quản lý từ bên ngoài đối với doanh nghiệp và chủ thể quản lý nội bộ doanh nghiệp

Đó là việc thực hiện về công khai, minh bạch trong tổ chức, hoạt động; xây dựng và thực hiện định mức, tiêu chuẩn, chế độ; thực hiện quy tắc ứng xử của người có chức vụ, quyền hạn; chuyển đổi vị trí công tác của người có chức vụ, quyền hạn; cải cách hành chính, ứng dụng khoa học, công nghệ trong quản lý và thanh toán không dùng tiền mặt; kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong doanh nghiệp. Thực hiện quy định về phát hiện, xử lý tham nhũng.

Người đứng đầu phải thực hiện nghiêm quy định về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong đó có doanh nghiệp trong quản lý, điều hành, trong việc chịu trách nhiệm khi để xảy ra tham nhũng trong doanh nghiệp, trong liên đới và trực tiếp chịu trách nhiệm đối với hành vi tham nhũng diễn ra trong doanh nghiệp.

Năm là, tăng cường công tác, sự phối hợp hoạt động của cơ quan có thẩm quyền trong việc phát hiện, xử lý tham nhũng khu vực doanh nghiệp

- Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán đối với doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước. Hoạt động này phải tiến hành thường xuyên, liên tục, kể cả theo kế hoạch và đột xuất.

- Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan thanh tra nhà nước và kiểm toán nhà nước trong phát hiện, xử lý vụ việc có dấu hiệu tham nhũng khu vực doanh nghiệp. Bên cạnh đó cần xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan này, phải chịu trách nhiệm về kết quả thanh tra, kiểm toán đối với doanh nghiệp.

- Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan kiểm tra Đảng đối với hoạt động kiểm tra, giám sát đảng viên thuộc khu vực doanh nghiệp nhà nước trong việc chấp hành Điều lệ, kỷ luật của Đảng.

- Tăng cường trách nhiệm của cơ quan giám sát (Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận, tổ chức đoàn thể...) trong việc giám sát hoạt động phát hiện, xử lý vụ việc, người tham nhũng khu vực doanh nghiệp và những người khác có liên quan.

- Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tư pháp trong việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án tham nhũng, bảo đảm kịp thời nghiêm minh, không có vùng cấm, không để sót, để lọt. Khuyến khích, động viên người tham nhũng, chủ động khai báo trước khi bị phát hiện, nộp lại tiền, tài sản tham nhũng, khắc phục hậu quả xảy ra để xem xét, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

- Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan Thanh tra Nhà nước, Kiểm toán Nhà nước, Ủy ban Kiểm tra Đảng, tư pháp trong việc phát hiện, xử lý người có hành vi tham nhũng. Chỉ đạo sâu sát, phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh, không bỏ sót, bỏ lọt, không bao che, dung túng. Công khai, minh bạch trong việc xử lý vụ việc, người có hành vi tham nhũng trong doanh nghiệp. Xử lý nghiêm đối với người đứng đầu để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình. Trong đó xác định trách nhiệm chính trị, trách nhiệm quản lý, trách nhiệm liên đới. Tránh tình trạng đùn đẩy, né tránh, không phải chịu trách nhiệm gì khi có nhiều vụ việc, cá nhân tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.

Sáu là, phát huy vai trò của báo chí, cơ quan truyền thông, tổ chức xã hội, người dân trong việc đưa tin, phản ánh, tố giác, phát hiện tham nhũng, giám sát việc xử lý đối với người tham nhũng trong khu vực doanh nghiệp

Cơ quan báo chí, truyền thông tích cực đưa tin về tình hình, kết quả xử lý vụ việc tham nhũng, tạo sự lan tỏa sâu, rộng trong xã hội, các tầng lớp Nhân dân để lôi cuốn mọi người tham gia đông đảo vào công cuộc đấu tranh chống tham nhũng.

Cơ quan có thẩm quyền tổ chức tốt việc tiếp nhận kịp thời đối với thông tin, phản ánh, tố giác đối với hành vi tham nhũng. Thực hiện tốt các biện pháp bảo vệ người tố cáo, nhân thân của họ khi tố cáo đúng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về người có hành vi tham nhũng, vụ việc tham nhũng./.

TS. Nguyễn Văn Kim Nguyên Q.Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Thanh tra Chính phủ
Ý kiến bình luận
Họ và tên *
Email *
Nội dung bình luận *
Xác thực *

Bản quyền thuộc Tạp chí Thanh tra