Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu, bài viết này tập trung phân tích cụ thể hơn một trong những hình thức giám sát của MTTQ Việt Nam là giám sát thông qua Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng (Ban GSĐTCCĐ).
1. Sự cần thiết phải giám sát dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sử dụng ngân sách nhà nước
Dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sử dụng ngân sách nhà nước (NSNN) là tập hợp các đề xuất có liên quan đến việc sử dụng vốn nhà nước để tiến hành hoạt động xây dựng mới, sửa chữa, cải tạo các công trình xây dựng cầu cống, đường xá, các công trình công cộng, hệ thống thủy lợi… do Trung ương hoặc địa phương quản lý nhằm đảm bảo điều kiện chung cho hoạt động phát triển văn hóa - xã hội - đời sống của con người.
Yêu cầu giám sát được đặt ra trước hết xuất phát từ đặc điểm phức tạp của dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sử dụng NSNN, đó là: (i) Hoạt động đòi hỏi lượng vốn lớn và nằm đọng lại trong suốt quá trình thực hiện đầu tư nên quản lý và cấp vốn đầu tư phải thiết lập các biện pháp phù hợp nhằm đảm bảo tiền vốn được sử dụng đúng mục đích, tránh ứ đọng và thất thoát vốn đầu tư, đảm bảo cho quá trình đầu tư xây dựng các công trình được thực hiện đúng theo kế hoạch và tiến độ đã được xác định. (ii) Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng có tính chất lâu dài, thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi thành công của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra nên các yếu tố thay đổi theo thời gian sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, chẳng hạn: Giá cả, lạm phát, lãi suất…(iii) Sản phẩm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là các công trình xây dựng gắn liền với đất xây dựng công trình nên mỗi công trình xây dựng có một địa điểm xây dựng và chịu sự chi phối bởi điều kiện địa hình, địa chất, thủy văn, môi trường, khí hậu, thời tiết… của nơi đầu tư xây dựng cơ bản, mà nơi đầu tư xây dựng cơ bản cũng chính là nơi đưa công trình vào khai thác, sử dụng; vì vậy, quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản phải dựa vào dự toán chi phí đầu tư xây dựng công trình (XDCT) được xác định và phê duyệt trước khi thực hiện đầu tư XDCT. (iv) Sản phẩm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng có tính đơn chiếc; mỗi hạng mục công trình, công trình có một thiết kế và dự toán riêng tùy thuộc vào mục đích đầu tư và điều kiện địa hình, địa chất, thủy văn, khí hậu, thời tiết,… của nơi đầu tư XDCT nên tác động đến quy hoạch, kiến trúc, quy mô và kết cấu khối lượng, quy chuẩn xây dựng, giải pháp công nghệ thi công… và dự toán chi phí đầu tư XDCT, hạng mục công trình; theo đó, việc giám sát quản lý chi đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước phải gắn với từng hạng mục công trình, công trình xây dựng nhằm quản lý chặt chẽ về chất lượng xây dựng và vốn đầu tư.
Bên cạnh đó, vấn đề giám sát cũng đặt ra từ góc độ chủ thể sở hữu của vốn xây dựng cơ bản từ NSNN là Nhà nước nên cần thiết phải giám sát quản lý, sử dụng vốn đầu tư được Nhà nước quản lý, điều hành sử dụng theo các quy định của pháp luật NSNN và các quy định của pháp luật khác. Vốn đầu tư dự án được gắn bó chặt chẽ với NSNN và được cấp thẩm quyền quyết định đầu tư vào các lĩnh vực xây dựng cơ bản phục vụ cho việc phát triển kinh tế xã hội; vốn đầu tư xây dựng cơ bản được đầu tư từ ban đầu cho đến khi hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng. Những đặc điểm trên cho thấy tính đa dạng và phức tạp của đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sử dụng NSNN và đòi hỏi cần phải có cách thức giám sát việc tổ chức quản lý và cấp phát vốn phù hợp nhằm đảm bảo hiệu quả vốn đầu tư. Theo đó, nội dung giám sát đối với dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng gắn liền với quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước theo những nguyên tắc nhất định của pháp luật về ngân sách nhà nước, pháp luật đầu tư công, pháp luật về xây dựng - điều này cũng phần nào cho thấy tính phức tạp mà nó hiện hữu.
2. Trách nhiệm, nội dung, phương thức, kết quả giám sát của Ban GSĐTCCĐ đối với dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sử dụng NSNN
2.1. Trách nhiệm giám sát của Ban GSĐTCCĐ đối với dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sử dụng NSNN
Giám sát đầu tư của cộng đồng là một trong bốn hình thức giám sát của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam (Khoản 3, Điều 27 Luật MTTQ Việt Nam năm 2015; khoản 2, Điều 11 Nghị quyết liên tịch số 403/NQLT- UBTVQH-CP-ĐCTUBTWMTTQVN, ngày 15/6/2017). Giám sát đầu tư cộng đồng đối với dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sử dụng NSNN là hoạt động tự nguyện của dân cư sinh sống trên địa bàn xã, phường, thị trấn nhằm theo dõi, đánh giá việc chấp hành các quy định về quản lý đầu tư của cơ quan có thẩm quyền trong quá trình thực hiện dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để kịp thời ngăn chặn và xử lý sai phạm, gây lãng phí, thất thoát vốn và tài sản nhà nước, xâm hại lợi ích của cộng đồng.
Ban GSĐTCCĐ được Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp xã thành lập cho từng chương trình, dự án. Ban GSĐTCCĐ là tổ chức bao gồm các chủ thể đảm nhiệm vai trò đại diện cho nhân dân giám sát chính các dự án đang được đầu tư trên địa bàn xã, phường của mình. Theo đó, Ban GSĐTCCĐ có nhiệm vụ tổ chức thực hiện giám sát đầu tư của cộng đồng theo chương trình, kế hoạch đã đề ra; tiếp nhận các thông tin do công dân phản ánh liên quan đến dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sử dụng NSNN để gửi tới các cơ quan quản lý có thẩm quyền; tiếp nhận và thông tin cho công dân biết ý kiến trả lời của các cơ quan quản lý có thẩm quyền về những kiến nghị của mình; định kỳ hoặc đột xuất báo cáo Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã về kết quả giám sát đầu tư của cộng đồng. Để thực hiện những nhiệm vụ này, Ban GSĐTCCĐ được Nhà nước trao cho công cụ pháp lý là quyền yêu cầu, quyền phản ánh, kiến nghị.
Về quyền yêu cầu: (i) Quyền yêu cầu các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cung cấp các thông tin về quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn, các quy hoạch khác liên quan theo quy định của pháp luật về quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai để giám sát dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sử dụng NSNN; (ii) quyền yêu cầu các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan trả lời về các vấn đề thuộc phạm vi quản lý theo quy định của pháp luật trong quá trình thực hiện dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sử dụng NSNN; (iii) quyền yêu cầu chủ chương trình, chủ đầu tư trả lời, cung cấp các thông tin phục vụ việc giám sát đầu tư như Quyết định đầu tư; thông tin về chủ đầu tư, Ban quản lý dự án, địa chỉ liên hệ; tiến độ và kế hoạch đầu tư; diện tích chiếm đất và sử dụng đất; quy hoạch mặt bằng chi tiết và phương án kiến trúc; đền bù, giải phóng mặt bằng và phương án tái định cư; phương án xử lý chất thải và bảo vệ môi trường; thông tin về quy trình, quy phạm kỹ thuật, chủng loại và định mức vật tư; kết quả nghiệm thu và quyết toán công trình; (iv) quyền yêu cầu các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, chủ chương trình, chủ đầu tư có trách nhiệm cung cấp các tài liệu liên quan đến dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sử dụng NSNN.
Về quyền phản ánh, kiến nghị: Ban GSĐTCCĐ có quyền kiến nghị các cấp có thẩm quyền đình chỉ thực hiện đầu tư, vận hành dự án nếu phát hiện thấy dấu hiệu vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện dự án gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, an ninh, văn hóa - xã hội, môi trường sinh sống của cộng đồng; hoặc chủ đầu tư không thực hiện công khai thông tin về chương trình, dự án đầu tư theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó, phản ánh với các cơ quan nhà nước về kết quả giám sát đầu tư của cộng đồng và kiến nghị biện pháp xử lý.
2.2. Nội dung, phương thức giám sát của Ban GSĐTCCĐ đối với dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sử dụng NSNN
Nội dung giám sát của Ban GSĐTCCĐ đối với dự án đầu tư cơ sở hạ tầng sử dụng NSNN bao gồm:
(i) Giám sát sự phù hợp của quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư với quy hoạch, kế hoạch đầu tư trên địa bàn xã theo quy định của pháp luật. Ban GSĐTCCĐ theo dõi, kiểm tra quyết định chủ trương đầu tư dự án xây dựng cơ sở hạ tầng sử dụng NSNN trên địa bàn có phù hợp với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch có liên quan theo quy định của pháp luật về quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền quyết định hoặc phê duyệt chưa; nếu phát hiện có sự mâu thuẫn giữa nội dung Quyết định đầu tư với các nội dung đã công bố công khai trong các tài liệu nêu trên thì ghi nhận, tiến hành xác minh, làm rõ mức độ mâu thuẫn, kiến nghị các cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định; theo dõi việc giải quyết các kiến nghị của các cấp có thẩm quyền, việc chấp hành các biện pháp xử lý của chủ đầu tư theo quy định;...
(ii) Giám sát việc chủ đầu tư chấp hành các quy định về chỉ giới đất đai và sử dụng đất; quy hoạch mặt bằng chi tiết, phương án kiến trúc, xây dựng; xử lý chất thải, bảo vệ môi trường; đền bù, giải phóng mặt bằng và phương án tái định cư; tiến độ, kế hoạch đầu tư.
(iii) Giám sát, phát hiện những tác động tiêu cực của dự án đến môi trường, cộng đồng. Theo dõi các việc làm của chủ đầu tư, các nhà thầu trong quá trình thực hiện đầu tư, vận hành (khai thác) dự án, nhất là trong quá trình thi công, tác động do bụi, khí thải phát sinh từ hoạt động thi công đào đất, đắp đất, san gạt, lu lèn, máy móc sử dụng dầu, trút đổ vật liệu xây dựng, trộn vữa, trải nhựa đường, vận chuyển nguyên vật liệu xây dựng; tác động do nước thải, chất thải... tại khu vực xây dựng trên địa bàn.
(iv) Theo dõi, đánh giá hiệu quả đầu tư và phát hiện những việc làm gây lãng phí, thất thoát vốn, tài sản thuộc dự án. Tiến hành theo dõi, đánh giá hiệu quả đầu tư của dự án bằng cách xem xét, đánh giá dự án theo một số tiêu chí: So sánh mục tiêu và quy mô đầu tư dự án so với yêu cầu thực tế đặt ra; so sánh chi phí đầu tư của dự án so với những dự án có mục tiêu và quy mô đầu tư tương tự; so sánh sánh chi phí đầu tư trên một đơn vị công suất thiết kế của dự án đang giám sát với những dự án tương tự đã đầu tư; xem xét kết quả đầu tư thực tế đạt được so với mục tiêu đầu tư đặt ra; ước tính tỷ lệ khai thác (sử dụng) công trình so với năng lực đã đầu tư; ước tính và so sánh giá thành trên một đơn vị sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án đang giám sát với những dự án tương tự đã đầu tư; ước tính và so sánh giá thành sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án đang giám sát với giá các sản phẩm tương tự trên thị trường; so sánh tổng các giá trị và lợi ích do đầu tư dự án mang lại với tổng các chi phí và tổn thất do thực hiện đầu tư dự án.
Ban GSĐTCCĐ giám sát các nội dung trên chủ yếu thông qua hình thức tổ chức giám sát theo chương trình, kế hoạch đã đề ra; tiếp nhận các thông tin do công dân phản ánh để gửi tới các cơ quan quản lý có thẩm quyền; tiếp nhận và thông tin cho công dân biết ý kiến trả lời của các cơ quan quản lý có thẩm quyền về những kiến nghị của mình.
2.3. Kết quả giám sát của Ban GSĐTCCĐ đối với dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sử dụng NSNN
Giám sát thông qua Ban GSĐTCCĐ là một trong những hình thức giám sát của MTTQ Việt Nam đối với dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sử dụng NSNN nên kết quả giám sát cũng mang đặc trưng của giám sát xã hội - mang tính phát hiện, kiến nghị. Tiếp cận từ góc độ nội dung giám sát, kết quả giám sát dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sử dụng NSNN của Ban GSĐTCCĐ như sau:
Đối với giám sát sự phù hợp của quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư với quy hoạch, kế hoạch đầu tư trên địa bàn xã theo quy định của pháp luật: Nếu phát hiện có sự mâu thuẫn giữa nội dung Quyết định đầu tư với các nội dung đã công bố công khai trong các tài liệu (Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội; Quy hoạch phát triển các ngành; Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai; Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng; Quy hoạch xây dựng chi tiết các khu đô thị, dân cư, công nghiệp,...; Kế hoạch đầu tư trên địa bàn xã) thì Ban GSĐTCCĐ ghi nhận, tiến hành xác minh, làm rõ mức độ mâu thuẫn, kiến nghị các cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định; theo dõi việc giải quyết các kiến nghị của các cấp có thẩm quyền, việc chấp hành các biện pháp xử lý của chủ đầu tư theo quy định. Trong trường hợp nhận thấy việc xử lý các vấn đề đã kiến nghị, hoặc việc chấp hành các biện pháp xử lý chưa thỏa đáng thì tiếp tục kiến nghị lên các cấp có thẩm quyền cao hơn.
Đối với giám sát việc chủ đầu tư chấp hành các quy định pháp luật: Nếu phát hiện thực tế có sự khác nhau so với những nội dung đã công bố công khai trong các tài liệu liên quan thì Ban GSĐTCCĐ ghi nhận, tiến hành xác minh, làm rõ mức độ khác nhau, kiến nghị các cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định; theo dõi việc giải quyết các kiến nghị của các cấp có thẩm quyền, việc chấp hành các biện pháp xử lý của chủ đầu tư theo quy định. Trong trường hợp nhận thấy việc xử lý các vấn đề đã kiến nghị, hoặc việc chấp hành các biện pháp xử lý chưa thỏa đáng thì tiếp tục kiến nghị lên các cấp có thẩm quyền cao hơn.
Đối với giám sát, phát hiện những tác động tiêu cực của dự án đến môi trường, cộng đồng: Nếu phát hiện có những việc làm xâm hại lợi ích của cộng đồng, gây tác động tiêu cực đến môi trường sinh sống của cộng đồng thì Ban GSĐTCCĐ ghi nhận, tiến hành xác minh, làm rõ mức độ xâm hại hoặc gây tác động tiêu cực, kiến nghị các cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý theo quy định; theo dõi việc giải quyết các kiến nghị của các cấp có thẩm quyền, việc chấp hành các biện pháp xử lý của chủ đầu tư và các nhà thầu theo quy định. Trong trường hợp nhận thấy việc xử lý các vấn đề đã kiến nghị, hoặc việc chấp hành các biện pháp xử lý chưa thỏa đáng thì tiếp tục kiến nghị lên các cấp có thẩm quyền cao hơn.
Đối với theo dõi, đánh giá hiệu quả đầu tư và phát hiện những việc làm gây lãng phí, thất thoát vốn, tài sản thuộc dự án: Nếu phát hiện có những yếu tố bất hợp lý thì Ban GSĐTCCĐ kiến nghị các cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý theo quy định; theo dõi việc giải quyết các kiến nghị của các cấp có thẩm quyền, việc chấp hành các biện pháp xử lý của chủ đầu tư theo quy định. Trong trường hợp nhận thấy việc xử lý các vấn đề đã kiến nghị, hoặc việc chấp hành các biện pháp xử lý chưa thỏa đáng thì tiếp tục kiến nghị lên các cấp có thẩm quyền cao hơn.
3. Một số vấn đề đặt ra và đề xuất kiến nghị
Phát huy vai trò tự quản của Nhân dân thông qua tổ chức và hoạt động của Ban GSĐTCCĐ để giám sát các hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng là chủ trương rất quan trọng của Đảng, Nhà nước và đang phát huy hiệu quả ở cơ sở. Vì vậy, có rất nhiều văn bản quy định của Nhà nước đã ban hành để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động này, như: (i) Luật MTTQ Việt Nam năm 2015; (ii) Luật Đầu tư công năm 2019; (iii) Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2023); (iv) Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 15/6/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam quy định chi tiết các hình thức giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam; (v) Nghị định số 29/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ, quy định về trình tự, thủ tục thẩm định dự án quan trọng quốc gia và giám sát, đánh giá đầu tư. Ngoài ra, trong Quy định số 69-QĐ/TW ngày 06/7/2022 của Bộ Chính trị quy định về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, có quy định cụ thể về kỷ luật tổ chức đảng vi phạm trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện tiếp thu ý kiến góp ý của Nhân dân, giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội (Điều 14). Ban Thường trực Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam có Thông tri số 25/TTr-MTTW-BTT ngày 10/8/2017 của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam về Hướng dẫn tổ chức và họat động của Ban Thanh tra Nhân dân, Ban GSĐTCCĐ tại xã, phường, thị trấn. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ GSĐTCCĐ.
Thực hiện các quy định của pháp luật về GSĐTCCĐ, trong thời gian qua hoạt động GSĐTCCĐ được quan tâm và tạo điều kiện của các cấp, các ngành, các chủ chương trình, chủ đầu tư, ban quản lý chương trình, dự án; hoạt động GSĐTCCĐ đối với các công trình, dự án tại nhiều địa phương ngày càng phát huy hiệu quả, được dư luận và Nhân dân quan tâm, đồng tình ủng hộ, góp phần làm minh bạch quản lý vốn, tài sản của Nhà nước và phòng chống tiêu cực, thất thoát, lãng phí của các công trình, dự án đầu tư tại cộng đồng; đồng thời, góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cộng đồng, công dân, hạn chế những sai sót, tiêu cực trong quá trình triển khai các công trình, dự án đầu tư tại địa phương.
Tuy nhiên, quá trình triển khai hoạt động GSĐTCCĐ đối với dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sử dụng NSNN còn những tồn tại, bất cập, như: (i) Việc thực hiện trách nhiệm của chủ chương trình, chủ đầu tư, ban quản lý chương trình, dự án trong thực hiện các quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật Đầu tư công năm 2019 chưa kịp thời, đầy đủ, nhất là việc cung cấp đầy đủ, kịp thời tài liệu liên quan đến việc triển khai thực hiện chương trình, dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước do các ngành, cơ quan nhà nước từ cấp huyện trở lên làm chủ đầu tư, nên GSĐTCCĐ thời gian qua hầu hết chỉ tập trung vào các dự án, công trình có vốn đầu tư của cộng đồng, các dự án do cấp xã làm chủ đầu tư; việc tiếp cận để thực hiện giám sát đối với các dự án do tỉnh, huyện làm chủ đầu tư còn hạn chế vì chủ đầu tư, đơn vị thi công không thực hiện công khai, không cung cấp tài liệu cho Ban GSĐTCCĐ; (ii) Mức kinh phí hỗ trợ giám sát đầu tư của cộng đồng trên địa bàn xã bố trí phù hợp với kế hoạch hoạt động giám sát đầu tư của cộng đồng do HĐND xã quyết định và đảm bảo mức kinh phí tối thiểu 10 triệu đồng/năm cho một xã theo quy định tại điểm a, khoản 5, Điều 90 Nghị định 29 của Chính phủ là chưa đảm bảo, phù hợp (xã có có ít công trình, dự án cũng bằng xã có nhiều công trình dự án), chế độ bồi dưỡng cho các thành viên hầu như không có. Qua đó, chưa tạo được động lực, sự chủ động của các thành viên Ban GSĐTCCĐ trong việc tổ chức hoạt động giám sát; (iii) Quá trình tổ chức thực hiện GSĐTCCĐ đối với công trình, dự án được giám sát tại hầu hết các địa phương còn lúng túng trong việc xác định đối tượng, nội dung, phương pháp giám sát…; (iv) Một số chủ chương trình, chủ đầu tư, ban quản lý chương trình, dự án được giám sát không tiếp thu, phản hồi đối với nội dung văn bản kiến nghị của Ban GSĐTCCĐ, đã làm giảm niềm tin của Nhân dân đối với vai trò của MTTQ Việt Nam ở cơ sở.
Nguyên nhân chủ yếu của tồn tại, bất cập trên là do: (i) Pháp luật có liên quan đến GSĐTCCĐ chưa có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, thời gian bắt buộc chủ chương trình, chủ đầu tư, ban quản lý chương trình, dự án thực hiện việc công khai, cung cấp tài liệu cho Ban GSĐTCCĐ; (ii) Quy định về quy trình và việc xử lý trách nhiệm đối với chủ chương trình, chủ đầu tư, ban quản lý chương trình, dự án không công khai, cung cấp tài liệu cho Ban GSĐTCCĐ, không tiếp thu, phản hồi các phản ánh, kiến nghị trong quá trình giám sát và sau giám sát của Ban GSĐTCCĐ chưa rõ ràng; (iii) Chưa có quy định hướng dẫn cụ thể về đối tượng, nội dung, phương pháp, công cụ, tổ chức GSĐTCCĐ.
Có thể nhận thấy, do tính chất của việc quản lý dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng từ nguồn ngân sách khá phức tạp nên cần có một số giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát cộng đồng trong lĩnh vực này như sau:
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật có liên quan đến GSĐTCCĐ theo hướng quy định cụ thể hơn về trình tự, thủ tục, thời hạn yêu cầu chủ chương trình, chủ đầu tư, ban quản lý chương trình, dự án thực hiện việc công khai, cung cấp tài liệu cho Ban GSĐTCCĐ; hướng dẫn cụ thể hơn về đối tượng, nội dung, phương pháp, công cụ, tổ chức giám sát; quy định rõ quy trình và việc xử lý trách nhiệm với hành vi không công khai, cung cấp tài liệu cho Ban GSĐTCCĐ, không tiếp thu, phản hồi các phản ánh, kiến nghị trong quá trình giám sát và sau giám sát của Ban GSĐTCCĐ.
Thứ hai, giám sát cộng đồng đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng sử dụng NSNN phải bám sát các quy định về huy động và sử dụng nguồn vốn NSNN được quy định trong các luật chuyên ngành, đặc biệt là Luật Ngân sách, Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng…; bám sát và đánh giá được việc thực hiện các mục tiêu, định hướng, danh mục chương trình, dự án đầu tư công, cũng như khả năng nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành, vùng của địa phương tiếp nhận ngân sách.
Thứ ba, giám sát cộng đồng đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng sử dụng NSNN cần bám sát và làm rõ được việc thực hiện vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ đầu tư và các ban quản lý dự án đầu tư, cũng như của cơ quan quản lý nhà nước nơi tiếp nhận dự án, đặc biệt trong việc tổ chức thực hiện chủ trương đầu tư, bố trí kế hoạch vốn, quản lý quy trình đầu tư, chi phí đầu tư xây dựng, quản lý việc tạm ứng, thanh toán và quyết toán vốn đầu tư xem có đúng theo quy định pháp luật của Nhà nước hay không.
Thứ tư, giám sát cộng đồng đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng sử dụng NSNN cần đánh giá được tất cả các khâu của quá trình đầu tư, trong đó đặc biệt là khâu quản lý đầu tư xây dựng. Bên cạnh đó, cũng cần chú ý đến một số khâu khác mà dễ xảy ra tiêu cực, cụ thể như: (i) Công tác xây dựng quy hoạch (bảm đảm công tác lập quy hoạch đầu tư cơ sở hạ tầng phải tuân theo những định hướng, mục tiêu mang tính lâu dài, phải phù hợp với thực tế, tránh tình trạng lệch hướng hoặc “lái” đầu tư sang những hạng mục chưa cần thiết để mưu cầu lợi ích của nhóm hay cá nhân cán bộ, công chức quản lý. (ii) Công tác lập kế hoạch vốn (bảo đảm việc lập kế hoạch vốn theo đúng quy định của luật đầu tư công và các quy định pháp luật khác; bảo đảm trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc lựa chọn đơn vị tư vấn đủ năng lực, chuyên môn phục vụ cho quá trình lập dự án; bảo đảm chất lượng hồ sơ thiết kế - dự toán có tính chuẩn xác, tính toán đúng khối lượng và định mức, tránh tính trạng đội chi phí lên gây thiệt hại nguồn ngân sách). (iii) Công tác thực hiện kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng từ nguồn ngân sách (bảo đảm việc giao kế hoạch vốn phải thực hiện từ đầu năm lập kế hoạch và phải tuân thủ đúng các quy định của nhà nước; bảo đảm việc phân bổ và điều chỉnh kế hoạch phải căn cứ vào tiến độ thi công thực tế các công trình và các quy định hiện hành; bảo đảm quản lý chặt chẽ trong việc điều hành chi đầu tư, rà soát, kiểm tra, xác minh các khoản nợ đọng vốn đầu tư xây dựng và phương án xử lý nợ đọng hợp lý.
Thứ năm, giám sát cộng đồng đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng sử dụng NSNN cần khai thác hiệu quả dữ liệu, thông tin từ hệ thống thông tin về đầu tư công – nguồn dữ liệu quan trọng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát, đánh giá đầu tư. Bên cạnh đó, cần chú trọng hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp, kết hợp với các kênh giám sát cộng đồng khác như thông qua mạng xã hội và các phương tiện thông tin đại chúng. Ngoài ra, cần chú ý khai thác các báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư của các cơ quan chức năng nhà nước, đặc biệt là các tài liệu gắn trách nhiệm của người có thẩm quyền với trách nhiệm thực hiện chế độ báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư tại các sở, ngành. Cũng cần khai thác dữ liệu từ các cơ quan thanh tra.
Thứ sáu, giám sát cộng đồng đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng sử dụng NSNN cần bám sát và dựa vào các quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng và thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở, đặc biệt là các quy định pháp luật về công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc sử dụng vốn NSNN. Có cơ chế khuyến khích, khen thưởng và bảo vệ, đề cao vai trò giám sát của cộng đồng nhằm phát hiện, ngăn ngừa tham nhũng, tiêu cực, lãng phí ngân sách./.
TS. Tạ Thu Thủy
Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra