Trong thời kỳ phong kiến, nhiều triều đại đã áp dụng các biện pháp để ngăn ngừa sự lạm quyền, tham nhũng của các quan lại, mà chủ yếu là các quan lại hành chính. Vào thời Lê Thánh Tông, triều đình đã thành lập và củng cố Lục khoa và Hiến ty là các cơ quan có chức năng giám sát hoạt động và xử lý những vi phạm của quan lại trong bộ máy chính quyền(**). Thời Nguyễn cũng thành lập một cơ quan đặt tên là Đô sát viện có nhiệm vụ giám sát sự tuân thủ pháp luật của toàn bộ bộ máy Nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Năm 1945, sau khi giành được độc lập, Chính phủ đã sớm chú ý đến vấn đề giám sát quyền lực Nhà nước. Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh thành lập Ban Thanh tra đặc biệt với nhiệm vụ giám sát tất cả công việc và nhân viên của các ủy ban hành chính và các cơ quan của Chính phủ. Sắc lệnh trao cho Ban Thanh tra đặc biệt những quyền hạn như: Nhận đơn khiếu nại của nhân dân; Điều tra, hỏi chứng, xem xét tài liệu, giấy tờ của các ủy ban hành chính hoặc các cơ quan của Chính phủ cần thiết cho công việc giám sát; Đình chỉ bắt giam bất cứ nhân viên nào trong ủy ban hành chính hay của Chính phủ đã phạm lỗi trước khi mang ra Hội đồng Chính phủ hay Tòa án đặc biệt xét xử. Đây có thể xem như một trong những văn bản luật đầu tiên về giám sát quyền lực Nhà nước và phòng, chống tham nhũng của Việt Nam.
Cần hoàn thiện cơ chế giám sát việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính Nhà nước (Ảnh minh họa: Internet)
Hiến pháp năm 1946 đã thiết lập cơ chế giám sát quyền lực bên trong bộ máy Nhà nước theo cả chiều ngang và chiều dọc.
Về chiều ngang, Hiến pháp 1946 đã quy định thành lập hệ thống cơ quan nắm giữ ba nhánh quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đồng thời, quy định mối quan hệ theo hướng có sự kiềm chế - đối trọng đến một mức độ nhất định giữa ba cơ quan này.
Về chiều dọc, Hiến pháp 1946 xác lập mối quan hệ giám sát, giám sát của chính quyền trung ương với chính quyền địa phương thông qua quy định cơ quan Nhà nước cấp dưới phải chịu sự giám sát của cơ quan Nhà nước cấp trên, giữa Hội đồng nhân dân với Ủy ban hành chính ở địa phương thông qua quy định Ủy ban hành chính chịu trách nhiệm đối với cấp trên và đối với Hội đồng nhân dân địa phương mình (Điều thứ 59, 60). Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 1946 cũng gián tiếp thành lập cơ chế giám sát quyền lực bên ngoài bộ máy Nhà nước thông qua việc ghi nhận chủ quyền của nhân dân; các quyền dân sự, chính trị cơ bản, bao gồm các quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp (Điều thứ 10); quyền bầu cử, bãi miễn đại biểu dân cử (Điều thứ 17,18) và quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia (Điều thứ 21).
Đến Hiến pháp năm 1959 và năm 1980, xét về cơ chế giám sát quyền lực bên trong bộ máy Nhà nước, mặc dù một số yếu tố hợp lý về phân quyền và kiềm chế đối trọng giữa ba nhánh quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp 1946 không còn được kế thừa, nhưng vẫn giữ quy định về giám sát của cơ quan lập pháp (Quốc Hội) với các cơ quan hành pháp (Chính phủ) và cơ quan tư pháp (Tòa án nhân dân tối cao). Bên cạnh đó, hệ thống Viện kiểm sát nhân dân được thành lập từ Hiến pháp 1959 với chức năng công tố kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan Nhà nước đóng vai trò là một thiết chế mới trong cơ chế giám sát quyền lực bên trong bộ máy Nhà nước. Đối với cơ chế giám sát bên ngoài bộ máy Nhà nước, các quy định của Hiến pháp 1946 vẫn được kế thừa và củng cố, thể hiện qua việc nêu rõ phương thức người dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân; bổ sung quy định về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân (từ Hiến pháp 1959); bổ sung quy định về địa vị chính trị, pháp lý của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các thành viên khác của Mặt trận (từ Hiến pháp 1980).
Hiến pháp năm 1992 đã có những điều chỉnh (đặc biệt trong lần sửa đổi, bổ sung năm 2001) theo hướng củng cố cơ chế giám sát quyền lực bên trong bộ máy Nhà nước, thể hiện qua các quy định về sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (Khoản 2 Điều 1); quy định về quyền của Quốc hội có thể “bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn" (Khoản 7 Điều 84); quy định về quyền của Chủ tịch nước có thể “đề nghị xem xét lại” pháp lệnh mà Ủy ban thường vụ Quốc Hội thông qua… Cơ chế giám sát quyền lực bên ngoài bộ máy Nhà nước cũng được củng cố trong Hiến pháp 1992, thể hiện qua việc bổ sung và làm rõ hơn các quy định về giám sát và phản biện xã hội của hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 9, 10) và về các quyền dân sự, chính trị của công dân.
Hiến pháp năm 2013 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc hiến định cơ chế giám sát quyền lực Nhà nước, thể hiện qua việc bổ sung quy định về sự “giám sát” lẫn nhau giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Với sự bổ sung đó, Hiến pháp 2013 đã tái thừa nhận cốt lõi của học thuyết phân quyền theo như Hiến pháp 1946. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung quy định về hai cơ quan hiến định độc lập là Hội đồng Bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước và quy định về thành lập một cơ chế bảo vệ Hiến pháp - là những thiết chế mới trong cơ chế giám sát quyền lực bên trong bộ máy Nhà nước. Cơ chế giám sát quyền lực bên ngoài bộ máy Nhà nước cũng được tiếp tục củng cố, thông qua các quy định nhằm đề cao chủ quyền nhân dân; quy định về hai hình thức nhân dân thực hiện quyền lực là dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp; các quy định mới và được sửa đổi về quyền con người, quyền công dân; quy định mới về vai trò giám sát và phản biện xã hội đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước, của hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam…
Kể từ khi Hiến pháp 2013 được ban hành đến nay, Quốc hội đã thông qua nhiều đạo luật mới và luật sửa đổi, bổ sung có tác dụng củng cố, hoàn thiện các cơ chế giám sát quyền lực Nhà nước, tiêu biểu như: Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014; Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015; Luật Kiểm toán Nhà nước năm 2015; Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015; Luật Báo chí năm 2016; Luật Trưng cầu ý dân năm 2015, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016.
Về cơ bản, cả hai cơ chế giám sát quyền lực bên trong và bên ngoài bộ máy Nhà nước đang được áp dụng ở Việt Nam đã có những kết quả đáng kể nhưng vẫn còn một số bất cập, hạn chế, có thể khái quát như sau:
Thứ nhất, về cơ chế giám sát bên trong:
Mặc dù đã được quy định trong Hiến pháp 2013, hiện tại khung pháp lý cho việc giám sát lẫn nhau giữa ba cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ở Việt Nam vẫn chưa rõ ràng, đặc biệt là việc giám sát của cơ quan hành pháp với các cơ quan lập pháp, tư pháp và giám sát của cơ quan tư pháp với các cơ quan lập pháp và hành pháp.
Liên quan đến giám sát với cơ quan hành pháp, hiện tại đã có những quy định về giám sát của Quốc hội và Chủ tịch nước với Chính phủ cả về nhân sự và hoạt động; giám sát của Tòa án và Viện Kiểm sát với việc thực hiện quyền hành pháp. Bản thân hệ thống cơ quan hành chính cũng có thiết chế giám sát nội bộ là cơ quan thanh tra. Có thể nói về mặt thiết chế, trong số ba cơ quan quyền lực Nhà nước, giám sát với cơ quan hành pháp hiện mang tính toàn diện, cụ thể hơn cả.
Mặc dù vậy, nhìn chung, hiệu quả giám sát cơ quan hành pháp trong thực tế còn chưa cao. Trong số các hoạt động giám sát của Quốc hội, có hoạt động chất vấn là tương đối tốt, các hoạt động giám sát khác hoặc còn mang tính hình thức hoặc là mới bước đầu thực hiện như lấy phiếu tín nhiệm. Giám sát của Chủ tịch nước hầu như chưa được thực hiện trong thực tế, trong khi hoạt động của Tòa hành chính còn chưa thực sự hiệu quả. Hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra - hình thức giám sát nội bộ của cơ quan hành pháp cũng còn có những vấn đề bất cập.
Nhìn theo chiều dọc, Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã đặt ra nhiều quy định để cơ quan Nhà nước ở Trung ương giám sát chính quyền địa phương; các cơ quan thuộc chính quyền địa phương cấp trên giám sát đối với chính quyền địa phương cấp dưới; và giám sát theo chiều ngang giữa các cơ quan trong một cấp chính quyền địa phương, chủ yếu là giám sát của Hội đồng nhân dân đối với Ủy ban nhân dân cùng cấp.
Theo Hiến pháp 2013, vai trò giám sát của Trung ương đối với chính quyền địa phương chủ yếu thông qua Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Cụ thể, Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhân dân (Khoản 7 Điều 74 Hiến pháp năm 2013). Chính phủ hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên (Khoản 5 Điều 96 Hiến pháp năm 2013). Trong thực tế, hoạt động giám sát quyền lực của chính quyền địa phương những năm gần đây đã có nhiều đổi mới, hiệu lực, hiệu quả đã được nâng lên đáng kể, song tính hình thức còn cao vì thiên về khảo sát nắm tình hình là chính nên kết quả giám sát còn hạn chế(***).
Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung quy định về hai cơ quan hiến định độc lập là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước. Đây có thể xem là hai cấu phần mới của cơ chế giám sát quyền lực bên trong, có vai trò giám sát việc thực thi quyền lực của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp trong hai lĩnh vực là bầu cử (Hội đồng bầu cử quốc gia) và việc sử dụng tài chính, tài sản của Nhà nước (Kiểm toán Nhà nước). Các cơ quan này được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các Điều 117, 118 Hiến pháp năm 2013 và các Luật Kiểm toán Nhà nước năm 2015, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015.
Trong thực tế, thời gian qua, Kiểm toán Nhà nước đã chứng tỏ vai trò nhất định trong hoạt động giám sát việc sử dụng tài chính, tài sản công đối với các cơ quan trong bộ máy Nhà nước và các cơ quan, tổ chức sử dụng ngân sách, tài sản Nhà nước, tuy nhiên, vẫn còn có những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn. Bên cạnh đó, các quy định về vị thế, tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng bầu cử quốc gia không có thay đổi đáng kể so với Hội đồng bầu cử trung ương trước đây.
Thứ hai, về cơ chế giám sát bên ngoài:
Hiến pháp năm 2013 đã củng cố một bước cơ chế giám sát quyền lực Nhà nước từ bên ngoài thông qua các quy định mới và sửa đổi về chủ quyền nhân dân, về các quyền con người, quyền cơ bản của công dân, về thực thi dân chủ trực tiếp, về vai trò lãnh đạo của Đảng với Nhà nước, và về vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Theo pháp luật hiện hành, nhân dân có thể thực hiện giám sát quyền lực Nhà nước thông qua việc bầu và bãi nhiệm đại biểu dân cử, bỏ phiếu trong trưng cầu dân ý và tham gia ý kiến với các cơ quan Nhà nước trong việc xây dựng Hiến pháp, pháp luật. Nhìn chung các hoạt động này trong thời gian qua đã được thực hiện và đi vào nền nếp, song vẫn còn mang tính hình thức. Một số hoạt động, cụ thể là bãi nhiệm đại biểu dân cử và bỏ phiếu trong trưng cầu dân ý chưa được thực hiện do khung khổ pháp lý còn thiếu đầy đủ. Rộng hơn, khung pháp luật về các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình... là nền tảng cho việc giám sát quyền lực Nhà nước của công dân thì vẫn chưa hoàn chỉnh. Tiến trình sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật về các quyền này theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 vẫn còn chậm.
Việc Hiến pháp năm 2013 tiếp tục nhấn mạnh vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên, tổ chức Công đoàn trong "đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước" (Điều 9) đã tạo tiền đề mới, có ý nghĩa quan trọng cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát quyền lực Nhà nước của các tổ chức này.
Tuy nhiên, vị trí, vai trò của các tổ chức này hiện vẫn chưa được phân biệt rành mạch. Ngoài các tổ chức chính trị - xã hội lớn như: Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, hiện quyền giám sát và phản biện xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội khác như: Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam… vẫn chưa được xác định rõ ràng vì chưa rõ các tổ chức này có quyền giám sát và phản biện một cách độc lập hay phải thông qua tư cách thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ở một góc độ khác, hiện tại, các yếu tố như phương thức thực hiện, trình tự, thủ tục, hậu quả pháp lý của cơ chế giám sát quyền lực bên ngoài bộ máy Nhà nước vẫn chưa được quy định cụ thể, làm ảnh hưởng đáng kể đến hiệu lực, hiệu quả của cơ chế hiện hành về giám sát quyền lực bên ngoài bộ máy Nhà nước.
Bên cạnh đó, các quy định pháp luật hiện hành chưa xây dựng được cơ chế phối hợp hiệu quả giữa hai loại hình giám sát xã hội với giám sát của Nhà nước (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp) đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan HCNN. Một số quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm cụ thể của đối tượng bị giám sát là cơ quan HCNN chưa thật rõ ràng, cụ thể, minh bạch. Do vậy, hiệu quả hoạt động giám sát chưa cao. Việc phối hợp giải quyết kiến nghị của các chủ thể giám sát xã hội và khiếu nại, tố cáo của công dân tại các cơ quan HCNN nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân; vẫn còn tình trạng một số kiến nghị giám sát giải quyết kéo dài, không dứt điểm, có sự đùn đẩy, né tránh của các cơ quan chức năng. Tương tự, trách nhiệm của cơ quan HCNN trong việc xử lý kết quả hoạt động giám sát xã hội chưa xác định cụ thể, rõ ràng.
Nhìn chung, trên thế giới và Việt Nam không có cơ chế riêng để giám sát hoạt động công vụ của cơ quan HCNN, mà việc này được thực hiện chủ yếu thông qua cơ chế giám sát quyền lực chung mà đối tượng là toàn thể các cơ quan trong bộ máy Nhà nước. Vì vậy, hoàn thiện cơ chế giám sát quyền lực Nhà nước nói chung chính là để tăng cường giám sát hoạt động công vụ của cơ quan HCNN.
Nhìn tổng thể, các cơ chế giám sát quyền lực Nhà nước của Việt Nam đã được củng cố, đáng kể nhất là từ Hiến pháp năm 2013. Mặc dù vậy, các cơ chế này đều có khá nhiều hạn chế, bất cập như đã phân tích. Nguyên nhân sâu xa của những bất cập đó là do nhận thức về quyền lực nhân dân, quyền lực Nhà nước và giám sát quyền lực Nhà nước ở nước ta còn chưa đầy đủ, dứt khoát. Vị trí của nhân dân là người chủ tối cao của mọi quyền lực trong xã hội mặc dù đã được thừa nhận nhưng còn chưa được quy định rõ nét, vị trí của Nhà nước như là một thiết chế dịch vụ công do người dân lập ra và trao quyền để phục vụ cộng đồng tuy đã được nhận diện nhưng vẫn chưa nhất quán; vẫn còn sự “giằng xé” trong tư duy và sự thiếu rõ ràng trong lý luận về giám sát quyền lực Nhà nước. Hệ quả là các cơ chế giám sát quyền lực cả bên trong và bên ngoài bộ máy Nhà nước hiện vẫn còn khiếm khuyết và chưa được thực hiện đầy đủ trong thực tế.
Như vậy, giải pháp đầu tiên cần phải làm là củng cố, hoàn thiện nhận thức lý luận về những vấn đề nêu trên. Cần tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu để xây dựng nhận thức đúng đắn và đầy đủ về các học thuyết pháp quyền và chủ quyền nhân dân. Bên cạnh đó, cũng cần nghiên cứu xác định và phổ biến những nhận thức thống nhất, toàn diện và mạch lạc về bản chất, mục đích, ý nghĩa và các phương thức giám sát quyền lực Nhà nước. Đây là những tiền đề để hình thành quyết tâm chính trị cao trong Đảng, Nhà nước và toàn xã hội với việc giám sát quyền lực Nhà nước.
Thứ nhất, với cơ chế giám sát bên trong:
Một là, về lâu dài, cần nghiên cứu xác định rõ những phương thức giám sát quyền lực giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, đặc biệt là những phương thức mà các cơ quan hành pháp, tư pháp có thể vận dụng để giám sát cơ quan lập pháp và để hai cơ quan hành pháp và tư pháp giám sát lẫn nhau. Bên cạnh đó, cũng cần nghiên cứu làm rõ các nội dung, quy trình và cách thức phân công, phối hợp hoạt động giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp để làm tiền đề cho việc giám sát quyền lực của các cơ quan này.
Hai là, nghiên cứu hoàn thiện khung khổ pháp luật để giám sát hiệu quả hoạt động của cơ quan thực hiện quyền hành pháp theo hướng bổ sung các quy định mới về các vấn đề như: cơ chế lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; cơ chế chịu trách nhiệm tập thể của Chính phủ trước Quốc hội… Bên cạnh đó, cần nghiên cứu tăng cường các quy định để tư pháp giám sát quyền hành pháp thông qua tố tụng hành chính, bởi đây được xem là một trong những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền và là cách thức hiệu quả để Tòa án giám sát quyền lực của cơ quan hành pháp. Đồng thời, cũng cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm tăng cường hiệu quả của cơ chế tự kiểm tra (thanh tra) trong bộ máy HCNN.
Ba là, nghiên cứu hoàn thiện khung khổ pháp lý về giám sát quyền lực Nhà nước đối với chính quyền địa phương theo hướng chú trọng việc giám sát thực thi công vụ và các nhiệm vụ được chính quyền trung ương phân công, phân cấp.
Bốn là, nghiên cứu theo hướng làm rõ và củng cố vị trí, vai trò của hai cơ quan hiến định độc lập (Hội đồng Bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước) trong việc giám sát hoạt động của tất cả các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, đặc biệt là của cơ quan hành pháp. Cần có các quy định để tăng thẩm quyền, trách nhiệm giám sát quyền lực Nhà nước cho Kiểm toán Nhà nước, Hội đồng bầu cử quốc gia.
Năm là, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật liên quan theo hướng củng cố các cơ quan, bộ phận có chức năng, nhiệm vụ giám sát, giám sát quyền lực đã có trong bộ máy Nhà nước như các ủy ban của Quốc hội, Viện Kiểm sát, Thanh tra Chính phủ, các ban của Hội đồng nhân dân. Sửa đổi cần theo hướng trao cho các cơ quan, bộ phận này nhiều quyền hơn trong việc giám sát, giám sát và xử lý những hành vi lạm dụng quyền lực của các cơ quan công quyền, đặc biệt là cơ quan hành chính.
Sáu là, nghiên cứu áp dụng các công cụ đánh giá độc lập liên quan đến giám sát quyền lực Nhà nước mà được các tổ chức trong và ngoài nước xây dựng, như: Bộ chỉ số đánh giá hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI), Bộ chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), Bộ chỉ số công lý, Bộ chỉ số tư pháp, Bộ chỉ số nhận thức tham nhũng... để tăng cường nhận thức, sự tham gia của người dân vào giám sát quyền lực Nhà nước, cũng như để cung cấp những thông tin, dữ liệu nguồn cho việc hoàn thiện các phương thức giám sát quyền lực Nhà nước.
Thứ hai, với cơ chế giám sát bên ngoài:
Một là, tiếp tục nghiên cứu cụ thể hóa và hoàn thiện các quy định về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận. Cũng cần mở rộng phạm vi chủ thể của quyền giám sát, phản biện xã hội đến công dân và tất cả các tổ chức, nhóm khác trong xã hội, qua đó nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
Hai là, xác định rõ hơn phạm vi giám sát xã hội đối với việc thực thi công vụ của cơ quan HCNN, tiếp tục rà soát, sửa đổi những quy phạm mâu thuẫn với nhau, bãi bỏ các quy phạm không còn phù hợp và bổ sung những quy phạm mới liên quan đến hoạt động giám sát xã hội và các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động giám sát trong các lĩnh vực tương ứng với hoạt động của cơ quan HCNN.
Ba là, nghiên cứu thiết lập cơ chế phối hợp hoạt động giữa các cơ quan, tổ chức có chức năng, nhiệm vụ hoặc đang thực hiện giám sát quyền lực Nhà nước, đó là các cơ quan của Đảng, các cơ quan của Nhà nước, các tổ chức xã hội và người dân nhằm phát huy thế mạnh tập thể và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động giám sát quyền lực./.
TS. Tạ Thu Thủy
Viện Chiến lược và Khoa học Thanh tra, TTCP
Chú thích:
(*) Đây là sản phẩm của đề tài cấp quốc gia KX.01.33/16-20 (thuộc Chương trình KH&CN trọng điểm cấp quốc gia KX.01/16-20);
(**) Xem Phạm Thị Duyên Thảo, Kiểm soát và hạn chế quyền lực Nhà nước thời Lê Thánh Tông - những giá trị hiện đại, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 18 (322), 2016, tr.19-29;
(***) Trần Ngọc Đường (2011), Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Sách chuyên khảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.60.