(Tiếp theo và hết)
2.3. Xử lý tình huống khi lập biên bản về việc vi phạm của đối tượng thanh tra
Khi tiến hành thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành hoặc thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành lập biên bản việc vi phạm của đối tượng thanh tra(1) (trừ trường hợp xử phạt không lập biên bản(2)) khi phát hiện vi phạm hành chính.
Biên bản vi phạm hành chính phải được lập tại nơi xảy ra hành vi vi phạm hành chính. Trường hợp biên bản vi phạm hành chính được lập tại trụ sở cơ quan thanh tra hoặc địa điểm khác thì phải ghi rõ lý do vào biên bản.
Biên bản vi phạm hành chính phải được lập thành ít nhất 02 bản, phải được người lập biên bản và người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm ký. Trường hợp người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm không ký vào biên bản thì biên bản phải có chữ ký của đại diện chính quyền cấp xã nơi xảy ra vi phạm hoặc của ít nhất 01 người chứng kiến xác nhận việc cá nhân, tổ chức vi phạm không ký vào biên bản; trường hợp không có chữ ký của đại diện chính quyền cấp xã hoặc của người chứng kiến thì phải ghi rõ lý do vào biên bản. Biên bản vi phạm hành chính được giao cho cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính 01 bản; trường hợp vi phạm hành chính không thuộc thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì biên bản và các tài liệu khác phải được chuyển cho người có thẩm quyền xử phạt trong thời hạn 24 giờ kể từ khi lập biên bản, trừ trường hợp biên bản vi phạm hành chính được lập trên tàu bay, tàu biển, tàu hỏa.
Trường hợp biên bản vi phạm hành chính có sai sót hoặc không thể hiện đầy đủ, chính xác các nội dung quy định thì phải tiến hành xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính theo quy định(3) để làm căn cứ ra quyết định xử phạt. Việc xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính được lập thành biên bản xác minh. Biên bản xác minh là tài liệu gắn liền với biên bản vi phạm hành chính và được lưu trong hồ sơ xử phạt.
Biên bản vi phạm hành chính có thể được lập, gửi bằng phương thức điện tử đối với trường hợp cơ quan thanh tra; cá nhân, tổ chức vi phạm đáp ứng điều kiện về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật, thông tin.
Biên bản vi phạm hành chính phải được lập đúng nội dung, hình thức, thủ tục và là căn cứ ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
2.4. Xử lý tình huống khi ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với đối tượng thanh tra
Khi tiến hành thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành hoặc thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành lập biên bản đối với đối tượng thanh tra do vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực quản lý của mình và ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với đối tượng thanh tra.
Trưởng đoàn thanh tra cần xem xét để xác định thẩm quyền xử phạt thuộc thẩm quyền của thanh tra viên; của Trưởng đoàn thanh tra hoặc người ra quyết định thanh tra(4). Trong trường hợp vi phạm thuộc thẩm quyền của người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra lập hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính báo cáo người ra quyết định thanh tra xem xét, quyết định.
Đối với vụ việc thuộc thẩm quyền xử phạt của thanh tra viên hoặc Trưởng đoàn thanh tra cần tuân thủ các quy định của pháp luật xử phạt vi phạm hành chính
Ngoài ra, trong quá trình thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra có thể phát sinh mối quan hệ với cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của đối tượng thanh tra để phối hợp, tạo điều kiện cho hoạt động của Đoàn thanh tra. Tuy nhiên, việc quan hệ với cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của đối tượng thanh tra không phải lúc nào cũng được như mong muốn, mà còn phụ thuộc vào thái độ của thủ trưởng cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của đối tượng thanh tra. Do đó, Trưởng đoàn thanh tra cần phải linh hoạt khi xử lý tình huống làm việc với cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của đối tượng thanh tra.
3. Xử lý các tình huống trong quan hệ nội bộ Đoàn thanh tra
Khi tiến hành hoạt động thanh tra sẽ phát sinh nhiều tình huống trong quan hệ nội bộ Đoàn thanh tra. Cụ thể như các tình huống trong tổ chức Đoàn thanh tra, trong xây dựng, phê duyệt kế hoạch tiến hành thanh tra, xây dựng báo cáo kết quả thanh tra của Đoàn thanh tra và các tình huống phát sinh trong quan hệ giữa Trưởng đoàn thanh tra với các thành viên Đoàn thanh tra… Tùy từng tình huống sẽ đòi hỏi Trưởng đoàn thanh tra phải tìm hiểu kỹ nguyên nhân, trao đổi, lắng nghe và tiếp thu chọn lọc các ý kiến để xử lý cho phù hợp. Một số tình huống cần được lưu ý xử lý như sau:
3.1. Xử lý tình huống trong xây dựng, phê duyệt kế hoạch tiến hành thanh tra
Theo quy định của pháp luật thanh tra, thời gian xây dựng và phê duyệt kế hoạch tiến hành thanh tra không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày ban hành quyết định thanh tra; trường hợp thanh tra đột xuất thì thời hạn không quá 03 ngày làm việc.
Tuy nhiên, khi thảo luận kế hoạch tiến hành thanh tra, nhiều ý kiến trong Đoàn thanh tra còn chưa thống nhất, đặc biệt là việc xác định trọng tâm, trọng điểm về nội dung thanh tra; phương pháp thanh tra.
Trước hết, Trưởng đoàn thanh tra cần bình tĩnh lắng nghe ý kiến của các thành viên để chọn lọc những ý kiến tham gia có tính chất xây dựng; những ý kiến khác với ý kiến của Trưởng đoàn cần được tổng hợp để báo cáo người ra quyết định thanh tra xem xét trước khi phê duyệt.
Trọng tâm, trọng điểm về nội dung thanh tra, phương pháp thanh tra là nội dung quan trọng của kế hoạch tiến hành thanh tra. Kế hoạch thanh tra mặc dù đã được soạn thảo, chuẩn bị kỹ, song trong quá trình tiến hành thanh tra thường phát sinh những tình huống, những vấn đề mới nảy sinh cần giải quyết. Do vậy, Trưởng đoàn thanh tra phải kịp thời nắm bắt để báo cáo người ra quyết định thanh tra điều chỉnh kế hoạch cho thích hợp.
3.2. Xử lý tình huống trong thay đổi, bổ sung thành viên Đoàn thanh tra
Pháp luật về thanh tra quy định việc thay đổi, bổ sung thành viên Đoàn thanh tra(5).
Khi phát hiện những dấu hiệu bất thường của thành viên Đoàn thanh tra hoặc khi nhận được đề nghị (từ chính thành viên đó) hoặc yêu cầu (từ cấp trên hay cơ quan quản lý thành viên đó), Trưởng đoàn thanh tra lập văn bản đề nghị thay đổi, bổ sung thành viên Đoàn thanh tra. Trong văn bản đề nghị đó, cần nêu rõ lý do đề nghị thay đổi và đề xuất người thay thế.
Việc thay đổi thành viên Đoàn thanh tra tuy được quy định trong văn bản pháp luật, là bình thường trong hoạt động thanh tra, nhưng là vấn đề liên quan đến tâm tư một con người. Do đó, với tình huống này đòi hỏi Trưởng đoàn phải rất bình tĩnh, tỉnh táo, cân nhắc kỹ trước khi quyết định lập văn bản đề nghị thay đổi thành viên Đoàn thanh tra.
3.3. Xử lý tình huống khi thành viên Đoàn thanh tra không chấp hành sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Trưởng đoàn thanh tra
Theo quy định của pháp luật thanh tra thì thành viên Đoàn thanh tra phải chấp hành quyết định, chỉ đạo của Trưởng đoàn thanh tra(6). Trong trường hợp có vấn đề phát sinh vượt quá thẩm quyền thì thành viên Đoàn thanh tra báo cáo kịp thời với Trưởng đoàn thanh tra và đề xuất biện pháp xử lý.
Tuy không xảy ra thường xuyên, nhưng có tình trạng thành viên Đoàn thanh tra không chấp hành chỉ đạo của Trưởng đoàn về phân công thực hiện nội dung thanh tra, về tiến độ thanh tra hoặc về báo cáo kết quả thanh tra. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó: Do phương pháp làm việc không khoa học; do năng lực trình độ của thành viên Đoàn thanh tra; do đối tượng thanh tra không hợp tác, dùng nhiều cách để kéo dài thời gian cung cấp hồ sơ, tài liệu hoặc chậm cử người liên quan trực tiếp làm việc với thành viên Đoàn thanh tra… và không loại trừ việc thành viên đó chống đối Trưởng đoàn thanh tra.
Để xử lý tình huống này, Trưởng đoàn thanh tra cần làm rõ do nguyên nhân để có biện pháp xử lý phù hợp:
- Nếu vì lý do chủ quan của thành viên Đoàn thanh tra (do phương pháp làm việc, do năng lực trình độ) thì Trưởng đoàn thanh tra cần có biện pháp hỗ trợ, như: cử thành viên khác (đã hoàn thành nhiệm vụ của họ) giúp đỡ hoặc chính Trưởng đoàn hỗ trợ hay hướng dẫn thêm về nghiệp vụ liên quan đến nội dung thanh tra được giao cho thành viên đó…
- Nếu nguyên nhân là do đối tượng thanh tra chống đối, dùng nhiều cách để kéo dài thời gian cung cấp hồ sơ, tài liệu thì Trưởng đoàn cần áp dụng quyền của mình để buộc đối tượng thanh tra phải chấp hành.
Trong trường hợp đối tượng thanh tra vẫn chưa nghiêm túc chấp hành thì báo cáo người ra quyết định thanh tra để xem xét, xử lý.
- Nếu nguyên nhân là do thành viên Đoàn thanh tra chống đối, Trưởng đoàn thanh tra cần áp dụng các biện pháp thuộc thẩm quyền để xử lý, chấn chỉnh như: Họp Đoàn thanh tra để các thành viên trong Đoàn tham gia ý kiến; thay đổi nhiệm vụ của thành viên Đoàn thanh tra; báo cáo người ra quyết định thanh tra để đề nghị thay đổi thành viên Đoàn thanh tra. Việc áp dụng biện pháp nào là tùy thuộc vào kết quả nhận định nguyên nhân và thái độ tiếp thu, sửa chữa của thành viên Đoàn thanh tra.
3.4. Xử lý tình huống trong xây dựng báo cáo kết quả thanh tra của Đoàn thanh tra
Theo quy định của pháp luật thanh tra(7), căn cứ báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ của các thành viên Đoàn thanh tra và căn cứ hồ sơ, tài liệu của Đoàn thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra chủ trì xây dựng báo cáo kết quả thanh tra của Đoàn thanh tra.
Trưởng đoàn thanh tra phải lấy ý kiến của thành viên Đoàn thanh tra về dự thảo báo cáo kết quả thanh tra của Đoàn thanh tra. Thành viên Đoàn thanh tra có quyền bảo lưu ý kiến về nội dung liên quan đến kết quả thực hiện nhiệm vụ được phân công và các nội dung khác của dự thảo báo cáo trước Trưởng đoàn thanh tra. Ý kiến bảo lưu được thể hiện bằng văn bản gửi kèm theo báo cáo kết quả thanh tra cho người ra quyết định thanh tra và được lưu trong hồ sơ thanh tra.
Quy định là như vậy, nhưng báo cáo kết quả thanh tra của Đoàn thanh tra mà không có sự thống nhất cao của tất cả thành viên trong đoàn là điều không nên có. Việc thành viên Đoàn thanh tra không thống nhất về nội dung nào đó trong báo cáo kết quả thanh tra của Đoàn thanh tra có thể có nhiều nguyên nhân và Trưởng đoàn thanh tra cần tìm hiểu, làm rõ:
- Trước hết, Trưởng đoàn thanh tra cần rà soát lại báo cáo kết quả thanh tra của từng thành viên Đoàn thanh tra được đối chiếu với các quy định của pháp luật và ý kiến tham gia của thành viên Đoàn thanh tra để tự mình đánh giá tính chính xác, khách quan của từng vấn đề trong dự thảo báo cáo kết quả thanh tra của Đoàn thanh tra. Nếu chưa đảm bảo tính chính xác, khách quan, Trưởng đoàn thanh tra yêu cầu thành viên Đoàn thanh tra xem xét lại và báo cáo lại.
- Nếu là mâu thuẫn cá nhân, Trưởng đoàn thanh tra cần có biện pháp hòa giải, xử lý trên cơ sở tôn trọng tính khách quan của hồ sơ, tài liệu đã thu thập, được đối chiếu với các căn cứ của pháp luật để đi đến kết luận chính xác nhất.
- Nếu là do nhận thức khác nhau về căn cứ pháp luật được áp dụng, Trưởng đoàn thanh tra cần tạo điều kiện (về thời gian, về tiếp xúc thông tin tài liệu…) để cho các thành viên khác thảo luận, tham gia ý kiến nhằm làm sáng tỏ căn cứ để kết luận vấn đề đó. Khi cần thiết, Trưởng đoàn thanh tra có thể dùng biện pháp chất vấn để tìm ra kết luận chính xác nhất.
3.5. Xử lý tình huống trong tổng kết hoạt động của Đoàn thanh tra
Theo quy định của pháp luật thanh tra, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày người ra quyết định thanh tra ký ban hành kết luận thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm tổ chức họp đoàn để kết thúc hoạt động của Đoàn thanh tra. Nội dung họp Đoàn thanh tra được lập thành biên bản và được lưu trong hồ sơ thanh tra(8).
Nội dung họp kết thúc hoạt động của Đoàn thanh tra bao gồm:
- Đánh giá kết quả thanh tra so với mục đích, yêu cầu của cuộc thanh tra;
- Đánh giá kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và việc chấp hành pháp luật, chỉ đạo của người ra quyết định thanh tra và tuân thủ chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng xử, chế độ thông tin, báo cáo trong hoạt động của Đoàn thanh tra; kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm về những hành vi vi phạm quy định trong hoạt động thanh tra (nếu có);
- Những bài học kinh nghiệm rút ra qua cuộc thanh tra;
- Đề xuất việc khen thưởng đối với Đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra, người có thành tích xuất sắc trong hoạt động thanh tra (nếu có);
- Nội dung khác theo yêu cầu của người ra quyết định thanh tra.
- Những kiến nghị, đề xuất khác của Đoàn thanh tra (nếu có).
Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm báo cáo kết quả cuộc họp với người ra quyết định thanh tra và thủ trưởng cơ quan, đơn vị chủ trì cuộc thanh tra.
Tuy nhiên, việc thực hiện quy định này, cá biệt còn có tình trạng cuộc thanh tra đã kết thúc, việc kiểm điểm đánh giá việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, việc thực hiện quy định về hoạt động, quan hệ công tác của thành viên Đoàn thanh tra còn hời hợt, không nghiêm túc, nhất là việc thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ thanh tra và các quy định khác có liên quan đến hoạt động Đoàn thanh tra. Một số thành viên của đoàn phát biểu ngoài cuộc họp, gây không khí căng thẳng, ảnh hưởng đến kết quả thanh tra.
Để khắc phục tình trạng này, Trưởng đoàn thanh tra cần cho các thành viên Đoàn thanh tra thảo luận trên tinh thần dân chủ, với ý thức xây dựng. Bản thân Trưởng đoàn thanh tra cũng cần phải thẳng thắn nhận xét những ưu, khuyết điểm của từng thành viên Đoàn thanh tra. Có như vậy, cuộc họp tổng kết Đoàn thanh tra mới có ý nghĩa.
Kết quả thực hiện nhiệm vụ và kết quả cuộc họp là căn cứ để Trưởng đoàn thanh tra nhận xét, đánh giá thái độ, trách nhiệm đối với công việc của từng thành viên Đoàn thanh tra.
3.6. Xử lý tình huống khi kết thúc thanh tra tại nơi được thanh tra
Theo quy định của pháp luật thanh tra, việc kết thúc thanh tra tại nơi được thanh tra được thực hiện khi thời hạn cuộc thanh tra đã hết hoặc thời hạn thanh tra chưa hết nhưng đã hoàn thành toàn bộ nội dung thanh tra theo kế hoạch tiến hành thanh tra được người ra quyết định thanh tra phê duyệt.
Trước khi kết thúc việc tiến hành thanh tra tại nơi được thanh tra(9), Trưởng đoàn thanh tra cần thực hiện:
- Tổ chức họp Đoàn thanh tra để rà soát kết quả thanh tra theo nội dung thanh tra đã thực hiện; thống nhất các nội dung công việc còn lại cần thực hiện cho đến ngày dự kiến kết thúc thanh tra trực tiếp;
- Báo cáo với người ra quyết định thanh tra về dự kiến kết thúc việc thanh tra tại nơi được thanh tra.
- Thông báo bằng văn bản và gửi cho đối tượng thanh tra về thời gian kết thúc thanh tra tại nơi được thanh tra. Trường hợp cần thiết, có thể tổ chức buổi làm việc với đối tượng thanh tra để thông báo việc kết thúc thanh tra. Nội dung làm việc được lập thành biên bản giữa Trưởng đoàn thanh tra và người đứng đầu của đối tượng thanh tra.
Mặc dù kết thúc thanh tra tại nơi được thanh tra, trong thực tiễn, giữa Đoàn thanh tra và đối tượng thanh tra vẫn phát sinh các tình huống, như:
- Đối tượng thanh tra vẫn phải tiếp tục cung cấp hồ sơ, tài liệu phục vụ cho việc báo cáo, giải trình về những vấn đề dự kiến được kết luận trong báo cáo kết quả thanh tra của thành viên Đoàn thanh tra và báo cáo kết quả thanh tra của Đoàn thanh tra;
- Có thành viên Đoàn thanh tra vẫn xuống trụ sở đối tượng thanh tra làm việc nhưng không báo cáo Trưởng đoàn thanh tra.
Để xử lý những tình huống này, trước khi công bố kết thúc thanh tra trực tiếp, Trưởng đoàn thanh tra cần chuẩn bị kỹ nội dung cuộc họp và lập biên bản với đối tượng thanh tra về các nội dung sau đây:
- Thống nhất việc ghi nhận, đánh giá bước đầu giữa Đoàn thanh tra và đối tượng thanh tra về những nhận xét về ưu, khuyết điểm của mỗi bên trong quá trình thanh tra (nhằm hạn chế những hành vi của đối tượng thanh tra bôi nhọ Đoàn thanh tra).
- Quy định phương pháp giải quyết những việc cần phải làm của mỗi bên sau khi kết thúc thanh tra;
- Quy định địa điểm làm việc để giải quyết những vấn đề phát sinh giữa đối tượng thanh tra và Đoàn thanh tra (thường là trụ sở của cơ quan thanh tra quản lý Trưởng đoàn thanh tra).
- Những việc nghiêm cấm, trong đó có việc thành viên Đoàn thanh tra xuống trụ sở đối tượng thanh tra làm việc nhưng chưa được Trưởng đoàn thanh tra cho phép.
4. Xử lý các tình huống trong quan hệ với các cơ quan có liên quan
4.1. Xử lý tình huống khi chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra
Trong quá trình thanh tra, khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì Trưởng đoàn thanh tra báo cáo để người ra quyết định thanh tra chuyển ngay vụ việc, tài liệu có liên quan cùng với văn bản kiến nghị khởi tố cho cơ quan điều tra có thẩm quyền xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật và thông báo cho viện kiểm sát nhân dân cùng cấp biết(10).
Tuy nhiên, trước đây trong nhiều trường hợp, sau khi vụ việc được chuyển cơ quan điều tra, cơ quan thanh tra nhận được thông báo của cơ quan điều tra: Vụ việc không có dấu hiệu tội phạm phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc này đã gây ra một hệ quả: Cuộc thanh tra đã kết thúc, kết luận thanh tra đã ban hành, nay vi phạm tiếp tục được xem xét để xử lý hành chính và kinh tế theo quy định của pháp luật về thanh tra
Để khắc phục tình trạng này, trước hết Trưởng đoàn thanh tra cần xử lý:
- Nắm chắc quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự để xác định dấu hiệu tội phạm.
- Chuẩn bị hồ sơ, tài liệu, chứng cứ báo cáo người ra quyết định thanh tra. Khi cần thiết, đề nghị người ra quyết định thanh tra mời các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử đến họp để tham vấn.
Để buổi tham vấn có hiệu quả, Trưởng đoàn thanh tra cần chỉ đạo thành viên Đoàn thanh tra tập hợp hồ sơ; chuẩn bị những nội dung còn vướng mắc, băn khoăn; in ấn tài liệu cuộc họp. Khi cần thiết, có thể lập biên bản cuộc họp; nếu được người ra quyết định thanh tra cho phép có thể ghi âm, ghi hình nội dung cuộc họp.
4.2. Xử lý tình huống trong mối quan hệ với cơ quan bảo vệ pháp luật
Trong quá trình thanh tra, khi được người ra quyết định thanh tra cho phép, Trưởng đoàn thanh tra có thể phối hợp và đề nghị cơ quan bảo vệ pháp luật cung cấp thông tin, tài liệu, xác minh một nội dung cụ thể nào đó của cuộc thanh tra. Đặc biệt cơ quan bảo vệ pháp luật có thể phối hợp với Đoàn thanh tra trong việc xử lý các vi phạm pháp luật trong quá trình thanh tra và sau thanh tra.
Tuy nhiên, trong quan hệ, cơ quan bảo vệ pháp luật thường khai thác thông tin của đối tượng thanh tra mà Đoàn thanh tra nắm được. Trong khi đó, những thông tin này là bí mật Nhà nước, chưa được người ra quyết định thanh tra cho phép; trong một số cuộc thanh tra, những thông tin này còn phải được Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước xem xét xử lý.
Trong trường hợp này, Trưởng đoàn thanh tra cần lưu ý bảo mật thông tin. Trong trường hợp cơ quan bảo vệ pháp luật cần thông tin của đối tượng thanh tra từ Đoàn thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra cần báo cáo bằng văn bản để người ra quyết định thanh tra xem xét, xử lý.
4.3. Xử lý tình huống trong mối quan hệ với cơ quan truyền thông
Trong thời đại hiện nay, báo chí và cơ quan truyền thông luôn tìm cách tiếp cận và khai thác thông tin về hoạt động của Đoàn thanh tra.
- Trong trường hợp đưa tin có chọn lọc vì mục đích chính đáng, tạo thuận lợi cho hoạt động của Đoàn thanh tra, tạo dư luận đồng thuận với việc thanh tra, báo chí và cơ quan truyền thông thường cử phóng viên gặp trực tiếp người ra quyết định thanh tra đề nghị cung cấp thông tin tài liệu. Khi được người ra quyết định thanh tra cho phép, Trưởng đoàn thanh tra làm việc với báo chí và cơ quan truyền thông theo chỉ đạo của người ra quyết định thanh tra.
- Trong một số trường hợp, báo chí và cơ quan truyền thông đưa tin với mục đích không trong sáng nhằm tạo áp lực lên cơ quan thanh tra và Đoàn thanh tra; bênh vực những sai phạm của đối tượng thanh tra. Với mục đích như vậy, phóng viên báo chí và cơ quan truyền thông thường thu thập thông tin bên lề, xung quanh các hoạt động của Đoàn thanh tra; tiếp xúc với những người mà Đoàn thanh tra đã làm việc; “theo dõi” hoạt động của Đoàn thanh tra ở nơi làm việc; những bài viết thường là tìm cách chỉ trích, phê phán Đoàn thanh tra; không loại trừ việc tố cáo Đoàn thanh tra trước công luận theo dạng nêu hiện tượng để hướng dư luận theo ý chủ quan của họ.
Thực tế đã xảy ra trường hợp: ngày hôm trước công bố quyết định thanh tra thì một, hai ngày sau đã có bài báo “kết luận” thay cơ quan thanh tra. Sau này, nếu Đoàn thanh tra kết luận khác thì dư luận sẽ nghi ngờ, không tin tưởng vào hoạt động của Đoàn thanh tra. Đây là áp lực rất lớn đối với Đoàn thanh tra và cơ quan chủ trì cuộc thanh tra.
Trước hết, Trưởng đoàn thanh tra cân nhắc, yêu cầu thành viên Đoàn thanh tra nghiêm túc chấp hành “Quy chế phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí”; không phát ngôn khi chưa được người ra quyết định thanh tra cho phép.
- Trưởng đoàn thanh tra cần “siết chặt” công tác quản lý Đoàn thanh tra, phân tích, động viên tư tưởng cho thành viên Đoàn thanh tra yên tâm thực hiện nhiệm vụ; thực hiện đúng quy định của pháp luật thanh tra; hạn chế tiếp xúc với những người không liên quan đến nhiệm vụ của Đoàn thanh tra; thường xuyên tập hợp tình hình, kịp thời báo cáo người ra quyết định thanh tra xem xét, xử lý./.
Chú thích:
(1) Khoản 21 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử phạt vi phạm hành chính năm 2020;
(2) Khoản 1 Điều 56 Luật Xử phạt vi phạm hành chính năm 2012;
(3) Điều 59 Luật Xử phạt vi phạm hành chính năm 2012;
(4) Điều 46 Luật Xử phạt vi phạm hành chính năm 2012 và khoản 21 Điều 1 Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử phạt vi phạm hành chính năm 2020;
(5) Khoản 1 Điều 12 và khoản 2, khoản 3 Thông tư số 06/2021/TT-TTCP;
(6) Khoản 1 Điều 7 Thông tư số 06/2021/TT-TTCP;
(7); (8); (9) Điều 39, Điều 48, Điều 28 Thông tư số 06/2021/TT-TTCP;
(10) Khoản 3 Điều 68; điểm p, khoản 1 Điều 80 Luật Thanh tra 2022.
TTVCC. Đặng Văn Bình
Nguyên Phó Vụ trưởng Vụ II, Thanh tra Chính phủ