Yêu cầu hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá
Toàn cầu hoá đòi hỏi các quốc gia phải tăng cường hợp tác quốc tế và hội nhập quốc tế sâu rộng. Những yêu cầu đặt ra và kết quả hội nhập quốc tế là nền tảng để hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng. Chủ trương hợp tác quốc tế nói chung được thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng, nhất là từ thời kỳ Đổi mới đến nay.
Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã đề cập đến vấn đề phân công và hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực: “Mở rộng phân công và hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế và khoa học, kỹ thuật, đẩy mạnh hoạt động ngoại thương”. “Tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu, trước hết là sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài” là một trong những nhiệm vụ cơ bản của Kế hoạch 5 năm 1976 – 1980[1]. Chủ trương hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực tiếp tục được thể hiện trong Phương hướng, nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế và xã hội trong 5 năm (1981 – 1985) và những năm 80: “Mở rộng hợp tác quốc tế, trước hết là với các nước xã hội chủ nghĩa, hết sức tranh thủ khai thác thật tốt và sử dụng hợp lý các nguồn vốn từ ngoài nước để bổ sung cho nguồn vốn trong nước”; “Phát huy cao độ tinh thần chủ động, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế về khoa học và kỹ thuật với các nước trên thế giới, trước hết với Liên Xô và các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế, đặc biệt coi trọng hợp tác với hai nước Lào và Campuchia anh em”[2].
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 cũng xác định: “Phát huy năng lực khoa học và công nghệ trong nước và tranh thủ hợp tác quốc tế để phát triển ngành công nghiệp điện tử - tin học đi thẳng vào hiện đại, góp phần đáp ứng nhu cầu về hàng điện tử thông dụng, nâng cao từng bước trình độ tự động hoá sản xuất và tin học hoá quản lý.”; “Mở rộng, đa dạng hoá và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ, tranh thủ sự hợp tác và tài trợ của các nước, các tổ chức và cá nhân, các nhà khoa học người Việt sống ở nước ngoài.”[3]. Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là một nội dung quan trọng trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII về các văn kiện tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, trong đó nhấn mạnh: “Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và công nghệ.” Và “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.”[4].
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã đề cập đến hợp tác quốc tế trên 6 lĩnh vực: Giáo dục, đào tạo; Khoa học và công nghệ; Môi trường; Phát triển vùng; Kinh tế xã hội với quốc phòng An ninh; và phòng, chống tham nhũng[5]. Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về các văn kiện Đại hội XI của Đảng, hai lĩnh vực hợp tác quốc tế được đề cập đến là văn hoá và quốc phòng, an ninh[6]. Ngày 01/02/2021, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng định hướng và đưa ra quan điểm chỉ đạo: “tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất.”[7]
|
|
Toàn cảnh Hội nghị tổng kết công tác đánh giá thực thi Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng. (Ảnh: Hoàng Minh) |
Quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng
Quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước có ý nghĩa quyết định đến hoạt động hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng. Quyết tâm chính trị thể hiện trên hai phương diện:
Thứ nhất, quyết tâm trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Như đã phân tích, ngay từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy nguy cơ của căn bệnh quyền lực có thể phá hoại sự nghiệp cách mạng của dân tộc, ý thức được rằng, giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn nhiều. Tham nhũng đã được xem là “giặc nội xâm” ngay từ thời điểm đó. Cho đến nay, Đảng và Nhà nước vẫn khẳng định quyết tâm chính trị cao độ trong công cuộc phòng, chống tham nhũng, đồng thời còn gắn chống tham nhũng với chống tiêu cực, lãng phí và các biểu hiện suy thoái khác trong nội bộ Đảng và hệ thống chính trị. Tổng kết kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII đã chỉ rõ: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng hệ thống chính trị được đặc biệt chú trọng, triển khai toàn diện, đồng bộ, hiệu quả. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chuyển biến mạnh mẽ, có bước đột phá gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, có hiệu quả, ngày càng đi vào chiều sâu. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng được củng cố vững mạnh”.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm đề ra trong nhiệm kỳ Đại hội XIII là “Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.”
Quyết tâm chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của công tác này, được khái quát ở hai phương diện cơ bản sau:
- Đối với Đảng, đó là phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có mối liên hệ chặt chẽ với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Phòng, chống tham nhũng trong Đảng và hệ thống chính trị thực chất là quá trình “tự soi”, “tự sửa” nhằm củng cố và nâng cao sức chiến đấu, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
- Đối với Nhà nước, đó là phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có mối liên hệ chặt chẽ với chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với ý nghĩa góp phần hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức.
Đồng thời, sự quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng không chỉ được thể hiện trong chủ trương, nghị quyết, chính sách mà còn được cụ thể hóa trong hành động thực tiễn:
Một là, chỉ đạo phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời nhiều vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, trong đó có cả các vụ án, vụ việc xảy ra ở các lĩnh vực có chuyên môn sâu, hoạt động khép kín: Đấu giá đất, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, y tế, giáo dục, trong lực lượng vũ trang, giải cứu công dân ở nước ngoài về nước; phát hiện, xử lý một số vụ án lớn, nghiêm trọng xảy ra ở khu vực ngoài nhà nước[8].
Hai là, xử lý nghiêm minh nhiều cán bộ cấp cao, cả đương chức và nghỉ hưu, trong đó lần đầu tiên xử lý hình sự đối với 1 đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị; 10 đồng chí Uỷ viên, nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng là bộ trưởng, bí thư, phó bí thư tỉnh uỷ, thành uỷ, chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
Ba là, chỉ đạo thực hiện nhiều cơ chế hiệu quả về phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực, nhất là cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực; cơ chế xử lý đồng bộ, kịp thời các sai phạm về tham nhũng, tiêu cực được phát hiện trong quá trình thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
Bốn là, gắn phòng, chống tham nhũng với phòng, chống tiêu cực, trọng tâm là suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức để phòng, chống tham nhũng từ gốc
Năm là, thành lập Ban Chỉ đạo trung ương về phòng, chống tiêu cực, tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị, do Tổng bí thư trực tiếp làm Trưởng Ban; sau đó đã thành lập Ban Chỉ đạo ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến địa phương, tạo chuyển biến mạnh mẽ, rõ rệt hơn nữa trong phòng, chống tham nhũng ở địa phương, cơ sở.
Sáu là, tăng cường kiểm soát quyền lực, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngay trong chính các cơ quan, đơn vị có chức năng phòng, chống tham nhũng.
Từ nhận thức đến chủ trương, đường lối thể hiện trong các văn kiện quan trọng, và sau đó được cụ thể hóa thông qua quá trình tổ chức thực hiện, Đảng và Nhà nước ta khẳng định quyết tâm mạnh mẽ và bền bỉ với công tác phòng, chống tham nhũng, tạo cơ sở và bảo đảm chính trị quan trọng cho hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này.
Thứ hai, quyết tâm trong thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng.
Chủ trương tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng được thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ví dụ, 1 trong 10 chủ trương của Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng (phòng, chống tham nhũng) lãng phí năm 2006 là hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng: “chủ động tham gia các chương trình, sáng kiến, diễn đàn quốc tế về phòng, chống tham nhũng phù hợp với điều kiện Việt Nam. Thực hiện các cam kết quốc tế về phòng, chống tham nhũng, chú trọng tới các cam kết về xây dựng môi trường đầu tư, kinh doanh minh bạch.”. Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/5/2012, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí là văn bản chỉ đạo mang tính định hướng đối với vấn đề phòng, chống tham nhũng trong nước.
Quan điểm của Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ) cũng đề ra “Đặt quá trình phòng, chống tham nhũng trong điều kiện hội nhập, chủ động hợp tác hiệu quả với các quốc gia, các tổ chức quốc tế; chú trọng tổng kết thực tiễn và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài trong công tác phòng, chống tham nhũng”. Nghị quyết số 82/NQ-CP ngày 06/12/2012 về chương trình hành động thực hiện Kết luận số 21-KL/TW ngày 25 tháng 5 năm 2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí giai đoạn 2012-2016” có đưa ra các nhóm nhiệm vụ chủ yếu, trong đó có Hợp tác quốc tế, thu hồi tài sản, hỗ trợ kỹ thuật và trao đổi thông tin theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 29/11/2017 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 có đề cập đến nhóm giải pháp số 8 về nội luật hóa các quy định của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng phù hợp với điều kiện và pháp luật Việt Nam; mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật phòng, chống tham nhũng ra khu vực ngoài nhà nước và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong phòng, chống tham nhũng.
Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đến năm 2023 (ban hành kèm theo Nghị quyết số 168/NQ-CP ngày 11 tháng 10 năm 2023 của Chính phủ) chỉ rõ quan điểm, mục tiêu, giải pháp tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng, chống tham nhũng trong thời gian tới như sau: (i) Về quan điểm: Tích cực, chủ động hợp tác quốc tế và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm tốt về phòng, chống tham nhũng; (ii) Về mục tiêu: Tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng, chống tham nhũng gắn với thực thi Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng; (iii) Về giải pháp: Tích cực tham gia, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng, thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng, cụ thể: Tăng cường nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng, nhất là trong phối hợp, chia sẻ thông tin, thực hiện các biện pháp ngăn chặn nhằm thu hồi tài sản bị tẩu tán hoặc truy bắt tội phạm tham nhũng bỏ trốn ra nước ngoài; ký kết mới điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế hoặc tham gia các khuôn khổ hợp tác quốc tế khác có liên quan nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn của Việt Nam trong phòng, chống tham nhũng, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế về tố tụng tư pháp, tương trợ tư pháp đáp ứng các yêu cầu trong giải quyết các vụ việc, vụ án tham nhũng có yếu tố nước ngoài; Nâng cao hiệu quả thực thi Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng và sự tham gia của Việt Nam vào các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng theo hướng tích cực, chủ động, thực chất, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của Việt Nam trong phòng, chống tham nhũng; Thúc đẩy hợp tác kỹ thuật, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ về phòng, chống tham nhũng với các đối tác, tổ chức quốc tế; nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về phòng, chống tham nhũng phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.
|
|
Các tập thể, cá nhân được tặng Bằng khen của Tổng Thanh tra Chính phủ vì đã có những đóng góp trong đánh giá thực thi Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng. (Ảnh: Hoàng Minh) |
Mức độ tương thích, phù hợp giữa pháp luật Việt Nam, điều kiện kính tế - xã hội với các quy định của pháp luật quốc tế
Điều kiện kinh tế - xã hội và mức độ tương thích của pháp luật Việt Nam là yếu tố quyết định đến việc thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế cụ thể. Ví dụ, khi phê chuẩn UNCAC, theo Quyết định số 950/2009/QĐ-CTN ngày 30/6/2009, Việt Nam bảo lưu khoản 2 Điều 66 về cơ chế giải quyết tranh chấp trong giải thích hoặc áp dụng UNCAC và Tuyên bố không bị ràng buộc bởi các quy định về hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp (Điều 20, UNCAC) và quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân (Điều 26, UNCAC); đồng thời, Việt nam cũng tuyên bố không áp dụng trực tiếp các quy định của UNCAC và không coi UNCAC là cơ sở pháp lý trực tiếp về dẫn độ. Việc đưa ra các tuyên bố bảo lưu hoặc không bị ràng buộc bởi một số quy định của UNCAC là xuất phát từ yêu cầu đảm bảo sự phù hợp với các nguyên tắc căn bản của Hiến pháp, pháp luật quốc gia, cũng như xuất phát từ những đặc thù về thể chế chính trị, kinh tế - xã hội trong nước.
Như đã đề cập, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam tập trung vào ba trụ cột chính, hai trong số đó là: (i) Đảm bảo an ninh quốc gia, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, độc lập dân tộc, bản sắc dân tộc; (ii) Đảm bảo sự thống nhất, ổn định của hệ thống chính trị. Có thể hiểu rằng tiến trình hội nhập nói chung trên mọi lĩnh vực cần phải được thực hiện với nguyên tắc không làm ảnh hưởng đến những vấn đề cốt yếu mang tính quốc gia – dân tộc như: chủ quyền, chính trị, an ninh, văn hóa và những giá trị truyền thống khác…
Lịch sử đã ghi nhận Việt Nam luôn chủ trương xây dựng một hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm. Nhà nước Việt Nam được tổ chức trên cơ sở bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Theo đó, tất cả các lĩnh vực đều phải được thể chế hóa và điều chỉnh bởi các quy định pháp luật.
Cho đến nay, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách và văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Những văn bản này đã có tác dụng tích cực trong thực tiễn công tác phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, hệ thống chính sách, pháp luật Việt Nam vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa đảm bảo được tính chiến lược, toàn diện, đồng bộ, kịp thời, chưa tiếp cận và đáp ứng với yêu cầu của đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tính ổn định và dự báo chưa cao. Thực trạng này xuất phát từ những nguyên nhân như: năng lực hoạch định chính sách và xây dựng thể chế về phòng, chống tham nhũng của các cơ quan có thẩm quyền chưa đáp ứng được yêu cầu; Lực lượng cán bộ của các cơ quan có thẩm quyền xây dựng pháp luật về phòng, chống tham nhũng chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng, trình độ và tính chất chuyên sâu; Công tác xây dựng pháp luật còn dàn trải, thiếu điều phối, trong khi đặc thù của pháp luật phòng, chống tham nhũng là rất rộng, liên quan tới nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực đòi hỏi có sự phối hợp chặt chẽ.
Hợp tác quốc tế trong phòng, chống tham nhũng đi kèm với nhiều nghĩa vụ quốc tế mà Việt Nam phải thực hiện, trong đó quan trọng nhất là cải cách thể chế pháp luật quốc gia. Nhiệm vụ này đặt ra những thách thức không nhỏ. Chỉ riêng việc chính thức trở thành thành viên của Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng đã kéo theo hàng loạt các hoạt động: xây dựng chiến lược, chính sách, chương trình hành động chống tham nhũng, nội luật hóa các quy định của Công ước, nghiên cứu bổ sung, thể chế hóa các biện pháp phòng ngừa tham nhũng, hình sự hóa các hành vi tham nhũng theo yêu cầu của Công ước; xây dựng, đàm phán và ký kết các hiệp định song phương, đa phương về dẫn độ, tương trợ pháp lý, hợp tác thực thi pháp luật, kiểm soát và thu hồi tài sản…
Khả năng tương thích, phù hợp giữa pháp luật Việt Nam với các quy định của pháp luật quốc tế là yếu tố quyết định phần lớn hiệu quả của hợp tác quốc tế trong phòng, chống tham nhũng, đặc biệt đối với các hoạt động hợp tác ở tầm vĩ mô và quan trọng như việc tham gia Công ước. Theo Báo cáo tổng kết Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 và Kế hoạch thực hiện Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng của Chính phủ, Việt Nam đã ban hành, tuân thủ và thực hiện đầy đủ 217/240 yêu cầu của Công ước; đã ban hành, tuân thủ và thực hiện nhưng chưa đầy đủ 18/240 yêu cầu và chỉ còn 5/240 yêu cầu của Công ước chưa được ban hành và chưa thực hiện.
Để thực thi Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng tốt hơn cũng như tham gia một cách tích cực và chủ động hơn vào các chương trình hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng, tăng cường tổng thể và toàn diện năng lực xây dựng thể chế, chính sách, pháp luật theo hướng ngày càng phù hợp với các quy định, quy chuẩn quốc tế về phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ quan trọng cần được các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đặc biệt quan tâm thực hiện.
(còn nữa)
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1977.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1982, t. II, tr. 5 – 90.
[8] vụ án xảy ra tại Công ty cổ phần tập đoàn FLC, Công ty chứng khoán BOS và các công ty có liên quan; vụ án xảy ra tại Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ khách sạn Tân Hoàng Minh.
ThS. Nguyễn Tuấn Anh
Vụ trưởng Vụ III, Thanh tra Chính phủ
ThS. Nguyễn Phương Vy
Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra, Thanh tra Chính phủ