1. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và yêu cầu bảo vệ Hiến pháp
1.1. Quan niệm về bảo vệ Hiến pháp
Trong nhiều tài liệu pháp lý, hoạt động bảo vệ Hiến pháp (BVHP) được hiểu là sự giám sát tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật. Đến nay, khái niệm này được hiểu rộng hơn, theo đó hoạt động BVHP không chỉ là sự kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật mà còn bao gồm nhiệm vụ bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp như là nền tảng của hệ thống pháp luật quốc gia, bảo đảm các quyền hiến định, mối quan hệ hữu cơ giữa các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước. Cụ thể, hoạt động BVHP bao gồm việc thực hiện các hoạt động sau đây:
(1) Giải thích Hiến pháp để bảo đảm cho các nguyên tắc, quy định của Hiến pháp được nhận thức và thực hiện thống nhất;
(2) Kiểm tra và giám sát hoạt động của các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước, các cá nhân được giao quyền nhằm bảo đảm sự phối hợp và cân bằng quyền lực, bảo đảm cho các chủ thể quyền lực hoạt động theo đúng giới hạn về thẩm quyền và trách nhiệm được Hiến pháp và pháp luật quy định;
(3) Kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế, bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật theo nguyên tắc bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp;
(4) Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân, bảo đảm các giá trị nhân bản của Hiến pháp, chủ quyền nhân dân và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân;
(5) Phát hiện và giải quyết các vấn đề phát sinh về thẩm quyền giữa cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền, các xung đột pháp luật có biểu hiện vi hiến, các khiếu kiện của công dân đối với cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền về các quyết định, hành vi có biểu hiện vi hiến.
Trong các hoạt động bảo hiến này, hoạt động cơ bản, quan trọng nhất là kiểm tra, giám sát tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật và hoạt động của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền. Nói như nhà Hiến pháp học người Pháp L. Favoreu, “không thể có hoạt động bảo hiến nếu không có thẩm quyền cơ bản là quyền giám sát tính hợp hiến của các đạo luật”(1).
1.2. Yêu cầu bảo vệ Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền là đề cao quyền lực của Nhân dân, tôn trọng, bảo đảm quyền con người, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật(2). Tư tưởng pháp quyền đặt các thiết chế quyền lực trong sự ràng buộc của Hiến pháp và pháp luật, kiểm soát quyền lực, bảo đảm sự phân công và kiểm soát quyền lực, sự độc lập của Tòa án, bảo đảm tính minh bạch của pháp luật. Nhà nước pháp quyền luôn cần đến sự thượng tôn Hiến pháp vì các lý do cơ bản sau(3):
Một là, Nhà nước pháp quyền khác với Nhà nước không pháp quyền ở khả năng bảo đảm tính phổ quát và tính tuyệt đối của chủ quyền của nhân dân, chủ quyền của quốc gia và dân tộc. Theo đó, về phương diện pháp lý, Hiến pháp với tính cách là bản khế ước của Nhân dân, là cơ sở pháp lý cao nhất và đầy đủ nhất bảo đảm sự khẳng định đó.
Hai là, về phương thức điều chỉnh, với tính chất đặc trưng của mình, các quy định mang tính cơ bản và nền tảng của Hiến pháp, những yêu cầu chặt chẽ của quá trình bổ sung, sửa đổi Hiến pháp là điều kiện cho một trật tự pháp lý ổn định cao vốn là đặc trưng của Nhà nước pháp quyền. Về mặt thực tiễn, sự bền vững của trật tự hiến định là nền tảng cho sự vận hành một xã hội ổn định - xã hội của các quan hệ bình đẳng, tự do giữa các chủ thể trong các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội. Sự ổn định và phát triển bền vững của xã hội đồng thuận là yếu tố không thể thiếu được cho sự vận hành hệ thống chính trị trên cơ sở thừa nhận, ủng hộ của các lực lượng xã hội (tính chính đáng của quyền lực), cho phép loại bỏ đến mức thấp nhất những yếu tố phủ định hoặc chống đối trật tự hiện hữu.
Ba là, Nhà nước pháp quyền khác với Nhà nước không pháp quyền ở việc xử lý mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, giữa quyền lực công với quyền con người. Các tư tưởng về chế độ pháp trị, những hệ thống pháp luật đồ sộ trước đó dù có hoàn hảo đến mấy vẫn chưa vượt qua được logic của sự tùy tiện. Nhà nước pháp quyền đặt quyền con người ở vị trí chủ đạo, từ đó đặt ra yêu cầu về trách nhiệm bảo đảm, bảo vệ quyền con người từ phía Nhà nước, đòi hỏi sự tự ràng buộc, tự hạn chế của quyền lực trước yêu cầu bảo vệ quyền con người. Là bản khế ước của mọi người, Hiến pháp quy định đầy đủ nhất về quyền con người so với những quy định của các đạo luật; đồng thời, hạn chế sự tùy tiện của quyền lực đối với quyền con người. Vì vậy, Nhà nước pháp quyền cần có Hiến pháp để bảo đảm được cốt cách đặc trưng của nó. Bởi thế, bảo hiến có một trong những nội dung cốt lõi là bảo vệ quyền con người, là thực hiện mục tiêu và đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền.
2. Đặc trưng cơ chế bảo vệ Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và một số vấn đề đặt ra
2.1. Đặc trưng cơ chế bảo vệ Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, cơ chế bảo vệ Hiến pháp ở nước ta mang những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, về chủ thể bảo vệ Hiến pháp. Với đặc trưng là mô hình bảo hiến phi tập trung, trách nhiệm, nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp được trao cho nhiều chủ thể khác nhau, cơ chế bảo vệ Hiến pháp ở nước ta có nhiều đặc điểm riêng, phản ánh đặc trưng của hệ thống chính trị trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Cụ thể là: Điều 119 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 ghi nhận “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp”. Theo đó, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các chủ thể BVHP đều có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giám sát, BVHP, bảo đảm để Hiến pháp, pháp luật được tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành trên thực tế.
Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, Quốc hội là trung tâm của thiết chế BVHP ở Việt Nam. Giám sát của Quốc hội mang tính quyền lực nhà nước, hướng tới mọi đối tượng, mọi chủ thể trong xã hội và bao trùm tất cả các lĩnh vực, các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp. Ngoài ra, Hiến pháp còn trao trách nhiệm BVHP cho nhiều chủ thể khác như: Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC), các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân.
Hai là, về nội dung bảo vệ Hiến pháp: Xuất phát từ tính tối thượng của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật nên hoạt động BVHP ở Việt Nam không chỉ tập trung vào việc giám sát bảo đảm sự phù hợp với Hiến pháp của các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), của điều ước quốc tế, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của các VBQPPL; mà còn bao gồm cả giám sát sự tuân thủ Hiến pháp trong hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Trong đó, nội dung quan trọng và cơ bản nhất của hoạt động BVHP là giám sát, kiểm tra VBQPPL. Mục đích của hoạt động này nhằm bảo đảm để luật, pháp lệnh và các VBQPPL khác được ban hành đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, phù hợp với Hiến pháp, bảo đảm tính thống nhất, thứ bậc hiệu lực pháp lý của văn bản trong hệ thống pháp luật. Hoạt động này còn nhằm bảo đảm để các cơ quan nhà nước, cá nhân được trao quyền thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tránh tình trạng vi phạm thẩm quyền đã được Hiến pháp ghi nhận hoặc có những hành vi xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Ba là, về phương thức thực hiện BVHP: Cơ chế BVHP ở nước ta không mang tính chất tài phán mà được thực hiện thông qua các hoạt động giám sát, kiểm tra và tự kiểm tra của các chủ thể có thẩm quyền. Khi phát hiện có hành vi vi phạm Hiến pháp, các chủ thể hoặc là tự mình hoặc là kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.
Bốn là, về hệ quả pháp lý: Căn cứ vào kết quả hoạt động BVHP và thẩm quyền được giao, các cơ quan có nhiệm vụ giám sát và BVHP đưa ra những phán quyết, quyết định dưới hình thức nghị quyết, bản án hoặc quyết định. Những phán quyết, quyết định này tác động trực tiếp đến đối tượng chịu sự giám sát cũng như mọi tổ chức, cá nhân khác trong xã hội. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, hoạt động giám sát và BVHP mặc dù được thực hiện không theo trình tự, thủ tục tư pháp (trừ hoạt động xét xử của Toà án, kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát) nhưng tính chất giám sát lại bao gồm cả giám sát quyết định (đình chỉ, huỷ bỏ, bãi bỏ VBQPPL) và giám sát tư vấn, tham vấn (kiến nghị, đề nghị, yêu cầu). Chẳng hạn hoạt động giám sát của Quốc hội có thể dẫn đến khả năng: (1) Quốc hội ra nghị quyết bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội hoặc miễn nhiệm; bãi nhiệm người giữ chức vụ do Quốc hội bầu; (2) Hoạt động giám sát của UBTVQH có thể dẫn đến khả năng: (i) UBTVQH ra nghị quyết huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật trái với pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH; (ii) Đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội xem xét, quyết định; (iii) hoặc đề nghị Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; (3) Hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội có thể dẫn đến khả năng Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội kiến nghị hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền thực hiện hoặc không thực hiện những hành vi nhất định.
Theo đó, đối với những phán quyết đình chỉ thi hành VBQPPL thì văn bản đó bị ngưng hiệu lực cho đến khi có quyết định xử lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đối với những quyết định huỷ bỏ hoặc bãi bỏ VBQPPL thì văn bản đó hết hiệu lực thi hành kể từ khi quyết định huỷ bỏ hoặc bãi bỏ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có hiệu lực pháp luật. Đối với nghị quyết giải tán hội đồng nhân dân (HĐND) trong trường hợp HĐND đó gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhân dân thì khi nghị quyết giải tán HĐND có hiệu lực hoặc được phê chuẩn, các đại biểu HĐND thôi làm nhiệm vụ đại biểu.
2.2. Một số vấn đề đặt ra
Bên cạnh những kết quả đạt được, qua tổng kết nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV và hoạt động tổng hợp từ kết quả các công trình nghiên cứu ở nước ta thời gian qua đã chỉ ra những hạn chế, bất cập của cơ chế BVHP hiện hành(4). Cụ thể là:
Nhu cầu và nội dung BVHP đã được hiến định trong Hiến pháp tuy nhiên cách thức thực hiện còn chưa được cụ thể hóa. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 quy định nhiều vấn đề “do luật định”, nhưng đến nay, còn một số nội dung chưa được luật định. Do đó, việc BVHP trước các vi phạm chưa thực sự triệt để, việc nhận diện vi phạm Hiến pháp nhiều khi được xem như các vi phạm pháp luật thông thường.
Các quy định của pháp luật về bảo vệ Hiến pháp còn thiếu và nằm rải rác trong nhiều văn bản, một số nội dung còn chung chung, chưa cụ thể, khó áp dụng trong thực tiễn. Ví dụ như, quy định về BVHP đối với các văn bản luật, Nghị quyết của Quốc hội có dấu hiệu vi phạm Hiến pháp chưa được thiết kế cụ thể. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND cũng bỏ ngỏ vấn đề này. Các đạo luật tố tụng cũng không có câu trả lời dứt khoát để xử lý tình huống nếu phát hiện thấy luật hoặc Nghị quyết của Quốc hội có dấu hiệu vi phạm Hiến pháp(5). Điều này có nghĩa là, trường hợp phát hiện quy định trong các đạo luật có dấu hiệu chưa phù hợp với Hiến pháp thì pháp luật hiện hành chưa có quy định cách xử lý cụ thể. Thực tiễn công tác lập pháp ở nước ta cho thấy, mặc dù các đạo luật đều trải qua quá trình xây dựng, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra công phu nhưng vẫn có các quy định chưa bảo đảm chất lượng trong một số đạo luật được thông qua.
Các đạo luật có liên quan quy định về BVHP chưa quy định rõ việc BVHP đối với hành vi hoặc văn bản cá biệt do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc thực hiện. Pháp luật hiện hành chưa quy định rõ cơ chế để công dân thực hiện quyền/trách nhiệm BVHP theo đúng tinh thần của Hiến pháp năm 2013.
Cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành chủ yếu dựa vào việc thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội. Có ý kiến cho rằng phương thức BVHP hiện hành chưa tách bạch giữa giám sát tính hợp hiến, giám sát tính hợp pháp của văn bản và hành vi của các cơ quan, cá nhân mà Hiến pháp trao quyền. Việc xử lý vi phạm Hiến pháp không được thực hiện thông qua cơ chế tài phán với trình tự, thủ tục riêng. Hình thức kiến nghị thông qua hoạt động giám sát, kiểm tra của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có lúc, có nơi còn chưa được đối tượng chịu sự giám sát thực hiện triệt để, hiệu quả mang lại chưa cao.
Hiến pháp hiện hành thiếu quy định về áp dụng trực tiếp Hiến pháp, chưa có cơ sở pháp lý rõ ràng cho việc xác định vi hiến không hành động(6). Trên thực tế, bên cạnh các vi phạm Hiến pháp dưới dạng ban hành VBQPPL trái với Hiến pháp, không phù hợp Hiến pháp, sai thẩm quyền được quy định trong Hiến pháp, vi hiến dưới dạng không hành động còn diễn ra khá phổ biến nhưng rất khó kiểm soát và xác định trách nhiệm. Đặc biệt là trong lĩnh vực ban hành văn bản quy định cụ thể hóa các quyền và tự do hiến định của công dân(7). Thẩm quyền huỷ bỏ, đình chỉ VBQPPL trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH trong thực tiễn áp dụng còn hạn chế(8).
Có thể nói, từ những hạn chế nêu trên mà trong thực tế hầu như chưa có một kết luận nào được coi là phán quyết về vi phạm Hiến pháp.
3. Tiếp tục bảo vệ Hiến pháp trong tình hình mới
Ở nước ta, sau hơn 35 năm đổi mới và 30 năm thực hiện Cương lĩnh chính trị, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, tạo ra sức mạnh tổng hợp cho sự phát triển đất nước. Việt Nam đã chuyển đổi thành công từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính trị - xã hội đất nước ổn định, quốc phòng - an ninh được tăng cường, văn hóa - xã hội có bước phát triển tích cực, dân trí được nâng cao, dân chủ hoá nhiều mặt, đời sống xã hội có bước tiến bộ, bảo đảm quyền con người, công bằng, tiến bộ xã hội. Sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN có những bước phát triển quan trọng. Kinh tế từng bước ra khỏi tình trạng suy giảm, lấy lại đà tăng trưởng. Uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày một nâng cao. Đó là tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, phát triển sáng tạo, sớm đưa nước ta thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Tuy nhiên, đất nước ta cũng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. “Đại dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp trong thời gian dài và khó kiểm soát, tác động tiêu cực đến kinh tế khu vực và thế giới, trong đó có nước ta, làm thay đổi cấu trúc kinh tế, phương thức quản trị và đời sống kinh tế, xã hội toàn cầu, buộc nhiều nước phải thay đổi định hướng, chiến lược phát triển theo hướng đề cao tinh thần tự lực, tự cường, chú trọng đầu tư và phát triển thị trường nội địa”(9). Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 là: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước”; “tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp”. Để thực hiện được nhiệm vụ trên, bên cạnh việc tiếp tục đổi mới, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thì vấn đề hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp tiếp tục được đặt ra.
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, để bảo đảm cơ chế bảo vệ Hiến pháp được vận hành liên tục, bảo đảm tính kế thừa, không bị ngắt đoạn, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành theo hướng sau:
Một là, cần tiếp tục nâng cao năng lực, trách nhiệm, hiệu quả bảo vệ Hiến pháp của các chủ thể mà Hiến pháp trao quyền, bao gồm: Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân. Đặc biệt, tăng cường hơn nữa vai trò của Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thiết chế trung tâm trong hoạt động bảo vệ Hiến pháp.
Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, cần nghiên cứu giao cho một cơ quan chuyên trách thuộc Quốc hội để giúp Quốc hội thực hiện việc giám sát đối với các văn bản luật do Quốc hội, UBTVQH, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, chính quyền địa phương ban hành. Cơ quan này có trách nhiệm trình kết quả giám sát để Quốc hội xem xét, quyết định. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế cho thấy, với các quốc gia có thể chế chính trị tương đồng với Việt Nam đều có xu hướng xây dựng thiết chế bảo vệ Hiến pháp trực thuộc Quốc hội, ví dụ như Trung Quốc. Hiện nay Trung Quốc đã thành lập Tiểu ban Kiểm tra và Giám sát các luật và quy định nằm trong Ủy ban pháp luật, (đổi tên thành Ủy ban Hiến pháp và Pháp luật thuộc UBTVQH vào năm 2018). Mục đích của việc thành lập thiết chế này là để xem xét các kiến nghị, kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp được đề xuất từ phía Hội đồng Nhà nước, TANDTC, VKSNDTC, các Hội đồng địa phương và Ủy ban Quân ủy Trung ương, cũng như các kiến nghị của Nhân dân, các tổ chức pháp nhân và các tổ chức xã hội khác. Trước đó, công việc này thuộc thẩm quyền của Tổng thư ký UBTVQH, nay trao cho cơ quan mới này nhằm thúc đẩy hoạt động kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của luật và các quy định. Khi tiếp nhận các kiến nghị xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của các luật và quy định của các công dân, pháp nhân và các tổ chức xã hội, Tiểu ban có nhiệm vụ xem xét và kiểm tra trước khi quyết định có để trình lên UBTVQH xem xét, xử lý. Chỉ trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng, vấn đề mới được xem xét bởi UBTVQH(10). Trong tương lai xa hơn, khi mà điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội cho phép, có thể tính đến một thiết chế bảo vệ Hiến pháp độc lập như mô hình Hội đồng Hiến pháp mà nhiều quốc gia trên thế giới đang áp dụng.
Hai là, nghiên cứu tiếp tục thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về nội dung, phương thức bảo vệ Hiến pháp. Trong đó, quy định rõ ràng, cụ thể nội dung giám sát Hiến pháp của Quốc hội là các VBQPPL có giá trị pháp lý thấp hơn Hiến pháp: Các luật, các văn bản dưới luật (nghị định, chỉ thị, thông tư…), các bản án, quyết định của cơ quan tư pháp, các văn bản của các tổ chức chính trị - xã hội được trao cho chức năng quản lý nhà nước: Điều lệ, nội quy; điều ước quốc tế trái với nội dung và tinh thần của Hiến pháp. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015 cần bổ sung quy định về quy trình xử lý quy định trong các đạo luật hoặc nghị quyết của Quốc hội có dấu hiệu vi hiến hoặc quy trình xử lý tình huống cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có đề nghị với Quốc hội xem xét tính hợp hiến của quy định trong đạo luật hoặc nghị quyết của Quốc hội có dấu hiệu vi hiến.
Ba là, hiện nay, mặc dù đã có sự thay đổi trong nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước về vị trí, vai trò của Hiến pháp. Tuy nhiên, vẫn tồn tại nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ hoặc lỗi thời về Hiến pháp và cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Do đó, cần tiếp tục tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của Hiến pháp, cơ chế bảo vệ Hiến pháp./.
Chú thích:
(1) Dẫn theo Nguyễn Đức Lam, Cơ quan bảo vệ Hiến pháp ở các nước, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7/2001.
(2) Xem thêm: Bảo hiến, chủ nghĩa lập hiến và Nhà nước pháp quyền. Nguồn: http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/119/596
(3) Xem thêm: TS. Tống Đức Thảo - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh “Những lập luận chính trị căn bản của chủ nghĩa lập hiến”. Nguồn: http://tcnn.vn/Plus.aspx/vi/News/125/0/1010067/0/5602/Nhung _lap_luan_chinh_tri_can_ban_cua_chu_nghia_lap_hien.
(4) Xem thêm: Viện Nghiên cứu lập pháp, Đề tài NCKH cấp Bộ: “Xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp phù hợp với Hiến pháp - Cơ sở lý luận và thực tiễn”, do PGS.TS. Nguyễn Quốc Sửu làm chủ nhiệm. H.2016; Viện Khoa học pháp lý - Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện cơ chế bảo hiến theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, TS. Nguyễn Văn Cương làm chủ nhiệm, H. 2017; Đặng Văn Chiến (Chủ biên), Cơ chế bảo hiến, Nhà xuất bản Tư pháp, H.2006; Mô hình tổ chức và hoạt động của Hội đồng Hiến pháp ở một số nước trên thế giới: Sách chuyên khảo, Ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Nxb. CTQG, Hà Nội năm 2013; GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, PGS.TS Trương Đắc Linh; Ths. Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang, ThS. Nguyễn Văn Trí - Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp, kinh nghiệm thế giới và Việt Nam (sách chuyên khảo). NXB Giáo dục Việt Nam.H.2010; GS.TS Lê Minh Tâm, Bảo hiến, cơ chế bảo hiến và cơ chế bảo hiến Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 4/2005.
(5) Điều 221 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 265 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 111 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
(6) Hành vi vi hiến được thể hiện dưới dạng hành động (thực hiện hành vi vượt quá giới hạn Hiến pháp cho phép trong thực thi quyền lực nhà nước), hoặc không hành động (không thực thi nghĩa vụ hiến định).
(7) Viện Nghiên cứu lập pháp, Đề tài NCKH cấp Bộ: “Xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp phù hợp với Hiến pháp - Cơ sở lý luận và thực tiễn”. H.2016 tr.126-127.
(8) Đặng Văn Chiến (Chủ biên), Cơ chế bảo hiến, Nhà xuất bản Tư pháp, H.2006, tr.101.
(9) GS.TS Vương Đình Huệ, “Quốc hội Việt Nam - hội tụ ý chí và niềm tin của dân tộc ta”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân số tháng 9.2021.
(10) Xem thêm: Đặng Minh Tuấn, “Thành lập Hội đồng Hiến pháp, những cơ hội và thách thức ở Việt Nam”, trích trong cuốn “Luật học Việt Nam những vấn đề đương đại” do Trường Đại học Luật xuất bản. Nxb Tư pháp, H. năm 2019, tr.153..
TS. Nguyễn Thị Dung
Viện Nghiên cứu Lập pháp