Ở bài trước, chúng ta đã thấy những thiếu sót, vi phạm trong công tác kiểm dịch thực vật (KDTV) tại Chi cục KDTV Vùng I. Tuy nhiên, những vi phạm mang tính hệ thống khi xuất hiện ở khắp các Chi cục KDTV Vùng II, V, VII, VIII - tất cả các đơn vị mà Thanh tra Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiến hành thanh, kiểm tra.
Đụng đâu sai đấy - hàng loạt lãnh đạo phải chịu trách nhiệm
Cụ thể, tại Kết luận Thanh tra số 401/KL-TTr ngày 24/7/2024, Thanh tra Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ rõ:
Đối với nội dung chấp hành các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng, Chi cục trường Chi cục KDTV Vùng II chịu trách nhiệm đối với việc đơn vị này không lập số theo dõi kê khai, giao, nhận bản kê khai tài sản, thu nhập năm 2022 theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 37 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.
Đối với công tác giải quyết thủ tục hành chính, trong thời kỳ thanh tra, cán bộ kiểm dịch bàn giao toàn bộ lượng mẫu để giám định sinh vật gây hại, không còn mẫu lưu theo quy định (Chi cục KDTV Vùng II, Vùng VIII).
Khối lượng lô vật thể tại Biên bản kiểm dịch và lấy mẫu vật thể không khớp với khối lượng tại Giấy đăng ký KDTV (Chi cục KDTV Vùng II, Vùng V); Giấy đăng ký KDTV và kiểm tra an toàn thực phẩm và hàng hóa có nguồn gốc thực vật nhập khẩu và Biên bản kiểm dịch và lấy mẫu vật thể thuộc diện kiểm dịch thực vật, Giấy chứng nhận KDTV có số lượng bao kiện nhiều hơn Phyto của nước xuất khẩu (Chi cục KDTV Vùng VII).
Giấy chứng nhận KDTV của nước xuất khẩu được chủ vật thể đăng ký kiểm dịch nhiều lần, Chi cục thực hiện kiểm dịch hàng hóa theo các lần nhập thực tế và trừ lùi trực tiếp trên chứng thư, không mở sổ theo dõi để biết chính xác đã cấp Giấy chứng nhận kiểm dịch khớp với hàng hóa trên Phyto của nước xuất khẩu hay chưa (Chi cục KDTV Vùng VIII).
Biên bản kiểm dịch và lấy mẫu vật thể thuộc diện KDTV không ghi số lượng khối lượng vật thể đối với mặt hàng nấm hương khô (Chi cục KDTV Vùng V).
Biên bản kiểm dịch và lấy mẫu vật thể cùng một người ký đại diện chủ vật thể nhưng chữ viết, chữ ký khác nhau hoặc không có chữ ký của chủ vật thể đại diện chủ vật thể; Người ký đại diện chủ vật thể không có tên trong Biên bản kiểm dịch và lấy mẫu vật thể (Chi cục KDTV Vùng VIII).
Biên bản kiểm dịch và lấy mẫu thể hiện cán bộ kiểm dịch không lấy mẫu vật thể (Chưa phát hiện sinh vật gây hại (không lấy mẫu)). Tuy nhiên, hồ sơ có Biên bản giao nhận mẫu (không ghi tên mẫu, mã số mẫu, khối lượng mẫu, có các chỉ tiêu giám định), có Phiếu Kết quả giám định sinh vật gây hại (Chi cục KDTV Vùng VIII).
Biên bản kiểm dịch và lấy mẫu vật thể thuộc diện KDTV không thể hiện rõ việc đã phát hiện sinh vật gây hại hay chưa phát hiện sinh vật gây hại tại phần Kết quả kiểm tra (không gạch đi những chữ không cần thiết) (Chi cục KDTV Vùng VIII)
Cấp Giấy chứng nhận KDTV nhập khẩu cây có bầu đất vượt quá thời gian theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 33 Luật Bảo vệ và KDTV và quy định tại điểm a khoản 4 Điều 10 Thông tư số 33/2014/TT- BNNPTNT ngày 30/10/2014 của Bộ Nông nghiệp và PTNT quy định trình tự, thủ tục KDTV nhập khẩu, xuất khẩu, quá cảnh và sau nhập khẩu vật thể thuộc diện KDTV (quá 24 giờ) (Chi cục KDTV Vùng II).
Giấy chứng nhận KDTV nhập khẩu (phần căn cứ cấp giấy) không ghi thông tin số và ngày tháng năm của Giấy phép KDTV (Chi cục KDTV Vùng V).
Cấp trùng số Giấy chứng nhận KDTV và kiểm tra an toàn thực phẩm hàng hóa có nguồn gốc thực vật nhập khẩu (Chi cục KDTV Vùng VII).
Biên bản giao nhận mẫu yêu cầu giám định 02 chỉ tiêu (côn trùng và nấm), Kết quả giám định sinh vật gây hại có kết quả giám định 03 chỉ tiêu (côn trùng, nấm, vi khuẩn) (Chi cục KDTV Vùng VII).
Biên bản giao nhận mẫu không có chữ ký của bên nhận mẫu (Chi cục KDTV Vùng VIII).
Cán bộ giám định ký nhưng không ghi rõ họ tên trên Thông báo kết quả giám định sinh vật gây hại (Chi cục KDTV Vùng VII);
Sử dụng con dấu có chữ ký khắc sẵn, không ký trực tiếp tại Biên bản kiểm dịch và lấy mẫu vật thể hoặc Biên bản giao nhận mẫu và tại Phiếu Kết quả giám định sinh vật gây hại (Chi cục KDTV Vùng VIII).
Thanh tra Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ rõ: Trách nhiệm đối với các vi phạm nêu trên trực tiếp thuộc về Lãnh đạo Trung tâm Giám định KDTV, Lãnh đạo Trung tâm KDTV sau nhập khẩu I, Lãnh đạo Trung tâm Bảo vệ thực vật phía Bắc, Lãnh đạo Chi cục KDTV các Vùng I, II, V, VII, VIII và các cá nhân trực tiếp thực thi nhiệm vụ. Trách nhiệm có liên quan thuộc về Lãnh đạo Cục Bảo vệ thực vật phụ trách công tác KDTV.
Cấp Giấy chứng nhận KDTV xuất khẩu sai quy định
Liên quan đến việc cấp Giấy chứng nhận KDTV xuất khẩu, tại nhiều Chi cục phổ biến tình trạng bàn giao toàn bộ lượng mẫu trung bình đã lấy để giám định sinh vật gây hại, không còn mẫu lưu; hồ sơ ghi số mẫu lưu trên Biên bản nhưng mẫu đã bàn giao hết (Chi cục KDTV Vùng II, Vùng VIII);
Một số Giấy đăng ký KDTV xuất khẩu không kê khai khối lượng vật thể cần kiểm dịch; không ghi ngày, tháng, không ghi thời gian kiểm dịch (Chi cục KDTV Vùng VII); Giấy đăng ký KDTV không ghi địa điểm kiểm dịch (Chi cục KDTV Vùng II).
Biên bản kiểm dịch và lấy mẫu vật thể thuộc diện KDTV tại phần kết quả kiểm tra không xác định "chưa phát hiện" hay "đã phát hiện sinh vật gây hại" (không gạch đi những chữ không cần thiết) (Chi cục KDTV Vùng VIII).
Biên bản kiểm dịch và lấy mẫu vật thể không có chữ ký của đại diện chủ vật thể (Chi cục KDTV Vùng II, Vùng VII, Vùng VIII). Cùng một người đại diện chủ vật thể nhưng chữ ký khác nhau trong các Biên bản kiểm dịch và lấy mẫu (Chi cục KDTV Vùng VIII). Người ký đại diện chủ vật thể không có tên trong Biên bản kiểm dịch và lấy mẫu (Chi cục KDTV Vùng II, Vùng VII, Vùng VIII); Sửa chữa số của Giấy chứng nhận KDTV (Chi cục KDTV Vùng VIII).
Thậm chí, có những đơn vị cấp Giấy chứng nhận KDTV xuất khẩu trước ngày lập Biên bản kiểm dịch và lấy mẫu vật thể (Chi cục KDTV Vùng II); Giấy chứng nhận KDTV không ghi thông tin xử lý vật thể (Chi cục KDTV Vùng II).
Khối lượng vật thể trên Giấy chứng nhận KDTV nhiều hơn khối lượng vật thể tại Giấy đăng ký KDTV xuất khẩu, Biên bản kiểm dịch và lấy mẫu vật thể thuộc diện kiểm dịch thực vật. Tên và địa chỉ người xuất khẩu trên Giấy chứng nhận KDTV không đúng với tên tổ chức cá nhân xuất khẩu trên Giấy đăng ký KDTV xuất khẩu; tên và địa chỉ người nhận trên Giấy chứng nhận KDTV không đúng với tên, địa chỉ của tổ chức cá nhân nhập khẩu trên Giấy đăng ký KDTV xuất khẩu (Chi cục KDTV Vùng VII).
Khối lượng vật thể trên Biên bản kiểm dịch và lấy mẫu vật thể thuộc diện kiểm dịch và Giấy đăng ký KDTV không khớp nhau; Khối lượng vật thể trên Giấy chứng nhận kiểm KDTV nhiều hơn trên Biên bản kiểm dịch và lấy mẫu vật thể (Chi cục KDTV Vùng VIII).
Ngày kiểm dịch lô vật thể trước ngày lập giấy đăng ký kiểm dịch của tổ chức; khối lượng, số lượng vật thể tại Biên bản kiểm dịch và lấy mẫu không phù hợp với Giấy chứng nhận KDTV (Vùng II); Biên bản kiểm dịch và lấy mẫu vật thể không ghi cụ thể tên chủ vật thể (Chi cục KDTV Vùng VII).
Thông báo kết quả giám định sinh vật gây hại ghi đúng mã số mẫu so với Biên bản giao nhận mẫu nhưng không đúng loại vật thể và các chỉ tiêu yêu cầu giám định (Chi cục KDTV Vùng VII).
Cấp trùng Giấy chứng nhận KDTV (Chi cục KDTV Vùng VIII).
Biên bản giám sát vật thể lập sau ngày cấp Giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật, Biên bản giám sát vật thể không có chữ ký đại diện đơn vị xử lý vật thể: Biên bản giám sát vật thể chưa đủ thời gian 48 giờ để kết luận lô vật thể "chưa phát hiện côn trùng sống tại thời điểm nghiệm thu" (Chi cục KDTV Vùng II).
Sử dụng lao động hợp đồng kỹ thuật có chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp để thực hiện nhiệm vụ kiểm dịch và lấy mẫu vật thể (Chi cục KDTV Vùng V).
Sử dụng chữ ký được đóng bằng con dấu khắc sẵn, không phải chữ ký trực tiếp trên các tài liệu thành phần: Giấy chứng nhận KDTV xuất khẩu, Biên bản giao nhận mẫu, Thông báo kết quả giám định sinh vật gây hại, Phiếu Kết quả giám định sinh vật gây hại, Biên bản kiểm dịch và lấy mẫu vật thể (Chi cục KDTV Vùng VIII).
Đối với những vi phạm nêu trên, trách nhiệm trực tiếp thuộc về Lãnh đạo Chi cục KDTV các Vùng II, V, VII, VIII, Lãnh đạo Trung tâm Bảo vệ thực vật phía Bắc và các cá nhân trực tiếp thực hiện nhiệm vụ. Trách nhiệm có liên quan thuộc về Lãnh đạo Cục Bảo vệ thực vật phụ trách công tác kiểm dịch thực vật.
Công tác lưu, bảo quản mẫu lưu cũng tồn tại, thiếu sót
Không chỉ vi phạm đối với các nội dung trên, Lãnh đạo Chi cục KDTV các Vùng nói trên cũng chịu trách nhiệm trong công tác quản lý và các cá nhân trực tiếp thực hiện nhiệm vụ lưu, bảo quản mẫu lưu trong công tác KDTV.
Bởi vì, qua thanh, kiểm tra, Thanh tra Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xác định: Công tác lưu, bảo quản mẫu lưu có một số tồn tại, thiếu sót theo quy định tại Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 01-175:2014/BNNPTNT về quy trình lưu giữ, bảo quản và vận chuyển mẫu trong công tác KDTV ở Việt Nam ban hành kèm theo Thông tư số 16/2014/TT-BNNPTNT ngày 05/6/2014 của Bộ Nông nghiệp và PTNT.
Cụ thể, lỗi thiếu một số mẫu lưu (tại Chi cục KDTV Vùng II, Vùng VIII).
Chưa thực hiện việc bảo quản mẫu vật thể là các loại hạt, quả sấy khô trong hộp nhựa có nắp lưới và sử dụng hóa chất ngăn côn trùng (Chi cục KDTV Vùng II, Vùng V, Vùng VII).
Mẫu vật thể là củ, quả tươi được đựng trong túi nilong và buộc thắt miệng túi, không sử dụng túi nilong kín có lỗ thông khí theo quy định (Chi cục KDTV Vùng II).
Không kiểm tra định kỳ sinh vật gây hại đối với các mẫu lưu theo quy định (Chi cục KDTV Vùng II, Vùng V, Vùng VII, Vùng VIII).
(Còn nữa)
K. Dung