Nguyên nhân một Chương trình mục tiêu quốc gia ở Thái Nguyên giải ngân vốn thấp

Thứ ba, 11/03/2025 10:00
(ThanhtraVietNam) - Cơ quan thanh tra chỉ ra nguyên nhân, khó khăn vướng mắc ảnh hưởng đến kết quả giải ngân nguồn vốn thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi ở Thái Nguyên. Trong đó, công tác kiểm tra, giám sát đánh giá việc thực hiện chưa thường xuyên; văn bản hướng dẫn có nội dung chưa thống nhất, chưa rõ ràng.

Giải ngân thấp, một Chương trình mục tiêu quốc gia ở Thái Nguyên kém hiệu quả

Phát hiện loạt công trình nghiệm thu, thanh toán thừa so với thi công

Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn 1 từ năm 2021 đến năm 2025, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 14/10/2021 là một chương trình lớn, có đối tượng phạm vi rộng; gồm 10 Dự án, 14 Tiểu dự án, 36 nội dung thành phần, do 23 bộ, ngành tham gia quản lý và tổ chức triển khai thực hiện.

Trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, Chương trình này được thực hiện tại 110 xã, thị trấn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thuộc 9 huyện, thành phố. Ban Dân tộc là cơ quan thường trực, chủ trì tham mưu quản lý Chương trình.

Kết luận thanh tra do Thanh tra tỉnh Thái Nguyên công khai cho thấy, đến 31/12/2023 tỷ lệ giải ngân vốn thực hiện Chương trình đạt 62,57% số dự toán được giao, riêng năm 2023 chỉ đạt 54,9%; kinh phí đã giải ngân chủ yếu là chỉ cho công tác đầu tư xây dựng (đạt 90%), nguồn vốn sự nghiệp đạt tỷ lệ giải ngân thấp (đạt 36,5%).

Theo Thanh tra tỉnh Thái Nguyên, tỷ lệ giải ngân vốn chưa cao dẫn đến chưa phát huy được hết hiệu quả của Chương trình theo kế hoạch được phê duyệt xuất phát từ một số nguyên nhân, vướng mắc chung sau:

Một là, Chương trình ưu tiên nguồn lực đầu tư, hỗ trợ cho các xã, thôn đặc biệt khó khăn, các xã ATK chưa hoàn thành chương trình 135, chưa về đích nông thôn mới và trực tiếp là các hộ nghèo, cận nghèo.

Những năm qua, tỷ lệ hộ nghèo vùng đồng bảo dân tộc thiểu số và miền núi giảm nhanh; các xã đặc biệt khó khăn về đích nông thôn mới thuộc đối tượng thụ hưởng xã khu vực I theo Quyết định số 861 của Thủ tướng Chính phủ.

Nguồn vốn Trung ương cấp ổn định cho cả giai đoạn, nhiều nội dung được cấp vốn nhưng đối tượng giảm dẫn đến tỷ lệ giải ngân nguồn vốn nhiều nội dung không cao.

Hai là, hệ thống văn bản quy định, hướng dẫn tổ chức thực hiện Chương trình còn nhiều bất cập, chưa đầy đủ phải sửa đổi, bổ sung nhiều.

Ba là, văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành Trung ương có nội dung chưa thống nhất, chưa rõ ràng nên khó khăn cho việc việc phân bổ vốn chỉ tiết đến từng tiểu dự án, nội dung, nhiệm vụ của Chương trình; chưa thực sự phân cấp, phân quyền cho các sở, ngành, địa phương dẫn đến làm giảm tính chủ động trong việc phân bổ vốn và tổ chức triển khai thực hiện.

Bốn là, nhiều nội dung Trung ương phân bổ vốn vuợt quá nhu cầu của tỉnh nhưng không được điều chuyển vốn giữa các nội dung cho phù hợp với nhu cầu thực tế (vốn giao thực hiện tiểu dự án 1- dự án 3; tiểu dự án 2, 3, 4 - dự án 5; dự án 8; tiểu dự án 1 - dự án 9...).

Ngày 18/1/2024, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 111 về một số cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó cho phép địa phương điều chỉnh dự toán ngân sách nhà nước từ dự án thành phần không còn đối tượng hỗ trợ hoặc không đủ điều kiện để giải ngân theo quy định hoặc có tỷ lệ giải ngân thấp để bổ sung dự toán cho các dự án thành phần khác trong cùng Chương trình.

Năm là, công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện Chương trình còn chưa được thường xuyên.

leftcenterrightdel
Trong số 4 dự án Ban Dân tộc được giao kinh phí thực hiện, Dự án 3 có tỷ lệ giải ngân chỉ đạt 11,62% so với dự toán

Về nguyên nhân, vướng mắc cụ thể, Kết luận thanh tra chỉ rõ:

Đối với Dự án 1: Ủy ban Dân tộc chậm ban hành định mức đất sản xuất làm căn cứ xác định hộ thiếu đất sản xuất. Các xã thuộc Chương trình không có quỹ đất công để cải tạo, khai hoang, tạo mặt bằng để hỗ trợ đất ở, đất sản xuất cho đối tượng thụ hưởng; điều kiện được hỗ trợ nhà ở phải có đất ở nhưng nhiều hộ thuộc đối tượng được hỗ trợ chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên không đủ điều kiện hỗ trợ, định mức hỗ trợ nhà ở thấp.

Đối với Dự án 3: Năm 2022, kinh phí thực hiện Tiểu dự án 1 (khoán bảo vệ rừng) giao cho Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhưng không thực hiện được do văn bản không thống nhất.

Đối với Dự án 5 - Tiểu dự án 2: Trung ương giao vốn vượt quá nhu cầu (kinh phí giao cho nội dung đào tạo dự bị đại học và sau đại học không có đối tượng thực hiện) và chậm ban hành văn bản hướng dẫn, sửa đổi, bổ sung dẫn đến tỷ lệ giải ngân đạt thấp.

Tiểu dự án 3: Việc xác định cơ sở giáo dục nghề nghiệp đối với Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên được quy định tại Luật Giáo dục nghề nghiệp và Luật Giáo dục chưa thống nhất về khái niệm dẫn đến không giải ngân được nguồn vốn tại các Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên; đối tượng và nội dung hỗ trợ trong công tác đào tạo nghề trùng với Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững.

Tiểu dự án 4: Trung ương chậm ban hành tài liệu đào tạo, tập huấn cho cộng đồng và cán bộ triển khai thực hiện Chương trình.

Đối với Dự án 8: Một số nội dung trong các văn bản hướng dẫn của Trung ương chưa cụ thể, khó khăn cho việc triển khai thực hiện Dự án; quy định các mục chỉ, định mức chỉ trong Thông tư số 55 ngày 15/8/2023 của Bộ Tài chính chưa cụ thể, rõ ràng, một số định mức chỉ còn thấp so với yêu cầu triển khai và duy trì các mô hình của Dự án…

Minh Bạch

TIN LIÊN QUAN

Ý kiến bình luận
Họ và tên *
Email *
Nội dung bình luận *
Xác thực *

Bản quyền thuộc Tạp chí Thanh tra