Thị trường trái phiếu giảm tỷ trọng từ 17 - 18% xuống 12,5%; thị trường cổ phiếu giảm từ 24 - 25% xuống 22%
Trong những năm gần đây, thị trường cổ phiếu và đặc biệt là thị trường trái phiếu doanh nghiệp chứng kiến sự tăng trưởng vượt bậc, phát triển nhanh cả về chiều rộng và chiều sâu, quy mô, sản phẩm và thanh khoản; đã huy động được nguồn lực tài chính cho doanh nghiệp sản xuất, đầu tư, kinh doanh bên kênh cung ứng vốn truyền thống từ tín dụng ngân hàng.
Số liệu của Bộ Tài chính cho thấy, quy mô thị trường vốn tăng trưởng bình quân 28,5%/năm giai đoạn 2016 - 2021, đạt 134,5% GDP vào cuối năm 2021, gấp 3,5 lần so với năm 2015. Trong đó, quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu tương đương 93,8% GDP; quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp là 14,2% GDP.
Năm 2022, thị trường vốn “rung lắc” và hàng loạt các sai phạm bị phát giác trong năm đã lộ diện các lỗ hổng pháp lý và nhiều kiểu biến tướng của các kênh huy động vốn này. Kết thúc một năm, làn sóng bán tháo đẩy chỉ số VN-Index sụt giảm 34%. Kênh trái phiếu doanh nghiệp cũng chứng kiến xu hướng mua lại ồ ạt, tăng 37,8% so với cùng kỳ nhưng giảm sâu 63,7% trong hoạt động phát hành mới, chỉ đạt khoảng 260.000 tỷ đồng. Trong khi đó, từ đầu quý 4/2022 đến nay gần như không có doanh nghiệp nào huy động được trái phiếu mới.
Còn thị trường bảo hiểm dù vẫn giữ được mức tăng trưởng khá, khi các chỉ tiêu về tổng tài sản, tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm, tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng xấp xỉ 15%, đầu tư trở lại nền kinh tế tăng 12,5% nhưng lại đang vướng vào những “điều tiếng” liên quan đến phân phối bảo hiểm qua kênh ngân hàng…
Chuyên gia tài chính đánh giá, thị trường tài chính rất phức tạp, quy mô rất lớn, phát triển nhanh nhưng ngày càng tinh vi. Đến cuối năm 2020, theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, quy mô hệ thống tài chính Việt Nam, bao gồm tổng tài sản của hệ thống tổ chức tín dụng, vốn hóa thị trường chứng khoán, dư nợ thị trường trái phiếu và doanh thu phí bảo hiểm tương đương khoảng 300% GDP.
Xét về tốc độ tăng trưởng, trong khoảng 10 năm qua, các kênh chủ lực trong thị trường vốn đều tăng trưởng rõ nét, khi vốn hóa thị trường cổ phiếu tăng 23%/năm, bảo hiểm tăng khá tốt (gần 20%/năm) và dư nợ thị trường trái phiếu tăng khoảng 13%. Đối trọng với thị trường vốn, tổng tài sản của tổ chức tín dụng cũng tăng 12,3%/năm, với tốc độ tăng trưởng tín dụng duy trì ở mức 14 - 15% trong 10 năm vừa qua.
Tuy nhiên, nhìn vào cấu trúc thị trường tài chính, tại thời điểm tháng 9/2022, tổng tài sản hệ thống ngân hàng trong cơ cấu hệ thống tài chính Việt Nam vẫn chiếm một tỷ trọng khá lớn, lên tới 67%. Như vậy, thị trường vốn, cả cổ phiếu và trái phiếu đều có vấn đề, dẫn đến thị phần của hệ thống ngân hàng tăng lên rõ rệt, từ mức 60% tăng lên 67%”.
Ghi nhận một năm khó khăn trên thị trường tài chính, khi thị trường trái phiếu bị suy giảm, từ tỷ trọng khoảng 17 - 18% tổng quy mô của hệ thống tài chính thời gian trước xuống còn khoảng 12,5%; thị trường cổ phiếu sụt giảm từ 24 - 25% xuống khoảng 22%. Còn doanh thu phí bảo hiểm thông thường chỉ chiếm khoảng 1% quy mô thị trường tài chính Việt Nam.
|
|
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet |
Căng thẳng gia tăng ở thị trường trái phiếu, cổ phiếu sẽ gây sức ép lớn lên hệ thống ngân hàng
Ở phương diện tín dụng, theo khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế, khối ngân hàng thông thường đóng góp trên 50% cho tổng vốn đầu tư toàn xã hội và riêng năm 2022 tăng tới 54%, bởi thị trường vốn năm vừa qua phát triển èo uột khi thị trường cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp chỉ cung ứng lần lượt 0,4% và 10,6% tổng lượng vốn cho nền kinh tế.
Đỉnh điểm, sau một năm, thị trường trái phiếu doanh nghiệp, chứng khoán rơi vào tình trạng đóng băng cùng thanh khoản căng thẳng, việc phải “gõ cửa” các ngân hàng khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn về nguồn vốn, gây ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường vốn nói chung và tác động ngược lại đến chất lượng tài sản sinh lãi của ngân hàng, các khoản trái phiếu doanh nghiệp do ngân hàng nắm giữ cũng có khả năng trở thành nợ xấu.
Các chuyên gia lo ngại, trong bối cảnh căng thẳng về nguồn vốn, thị trường vốn đang bị thu hẹp, suy giảm, phát triển chậm sẽ đè nặng lên hệ thống ngân hàng. Ngay trong năm 2022, khi tín dụng tăng trưởng lên đến 14,5% nhưng doanh nghiệp vẫn kêu đói vốn, khát vốn.
Đồng thời, áp lực đối với hệ thống ngân hàng không phải không có, khi nó ngày càng đè nặng bởi tốc độ tăng trưởng tín dụng hiện tương đối cao, lên tới 14 - 15%, với tổng dư nợ hiện nay khoảng 11,7 triệu tỷ đồng, thì lượng tiền từ tín dụng đổ vào nền kinh tế là rất, vì vậy, cần phải kiểm soát mức tăng hợp lý, tránh hệ lụy về lâu dài.
Cũng theo các chuyên gia, bắt đầu xuất hiện sự sai lệch về cơ cấu thời hạn của nhiều ngân hàng thương mại, khi lượng tiền cho vay trung và dài hạn bất động sản tăng rất nhanh. Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tốc độ tăng trưởng tín dụng chỉ là 14,5% thì riêng lĩnh vực bất động sản tăng trên 20%, tập trung chủ yếu giai đoạn đầu năm.
Bên cạnh tình trạng chênh lệch tín dụng - huy động “âm”, việc mất cân đối về mặt kỳ hạn giữa huy động và cho vay cũng cần kiểm soát tại khối ngân hàng. Báo cáo tài chính quý 3/2022 của các ngân hàng cho thấy hàng loạt ngân hàng được thống kê có tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn cao.
Có ngân hàng có tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn lên tới 37%. Tính hết quý 3/2022, ngân hàng có 87.336 tỷ đồng cho vay trung và dài hạn, tuy nhiên, nguồn vốn trung, dài hạn là 28.811 tỷ đồng. Do đó, ngân hàng đã phải dùng tới 58.525 tỷ đồng vốn ngắn hạn để bù đắp sang cho hoạt động tín dụng trung và dài hạn.
Hay tại một ngân hàng khác, cho vay trung, dài hạn ở mức 231.340 tỷ đồng nhưng vốn huy động trung, dài hạn là 57.629 tỷ đồng. Như vậy, ngân hàng này đã phải dùng 173.711 tỷ đồng vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn.
Việc “bóc ngắn cắn dài” sẽ đẩy ngân hàng gặp khó khăn, đặc biệt là các ngân hàng đang có tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn cao. Do đó, theo quy định của Thông tư 08/2020/TT-NHNN sửa đổi Thông tư 22/2019/TT-NHNN ngày 14/08/2020, đến ngày 1/10/2022, các ngân hàng phải giảm tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn xuống mức 34% và từ ngày 1/10/2023 tới đây chỉ còn 30%...