Vai trò của cơ quan đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp
Theo đó, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp là cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi là Ủy ban); được Chính phủ giao thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và phần vốn nhà nước đầu tư tại công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên theo quy định của pháp luật. Ủy ban có tên giao dịch quốc tế tiếng Anh viết tắt là CMSC. Ủy ban là đơn vị dự toán cấp I của ngân sách trung ương.
Nghị định số 131 quy định, Ủy ban có nhiệm vụ xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện chiến lược, kế hoạch, chương trình. Cụ thể là xây dựng và trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chiến lược tổng thể đầu tư phát triển doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý của Ủy ban theo chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch được cấp có thẩm quyền quyết định; xây dựng kế hoạch hoạt động dài hạn, 05 năm và hằng năm của Ủy ban và triển khai thực hiện chương trình về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Ủy ban cũng thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan đại diện chủ sở hữu theo quy định của pháp luật bao gồm: đề xuất cấp có thẩm quyền ban hành, sửa đổi, bổ sung điều lệ của doanh nghiệp nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập giao Ủy ban làm đại diện chủ sở hữu; tham mưu, giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện các quyền, trách nhiệm đối với doanh nghiệp do Ủy ban làm đại diện chủ sở hữu; thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ giao Ủy ban làm đại diện chủ sở hữu; thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn đối với phần vốn nhà nước đầu tư tại công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên do Ủy ban làm đại diện chủ sở hữu; đề xuất Bộ Tài chính trình Chính phủ ban hành, sửa đổi, bổ sung Quy chế quản lý tài chính của doanh nghiệp.
Ngoài ra, Ủy ban còn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thuộc Chính phủ theo quy định của pháp luật như: Đề xuất Chính phủ việc thành lập mới, tổ chức lại, giải thể các tổ chức, đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của Ủy ban; lập dự toán ngân sách nhà nước hằng năm, kế hoạch tài chính, ngân sách nhà nước trung hạn 05 năm, 03 năm của Ủy ban để trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; kiểm tra việc chấp hành chính sách, pháp luật và nhiệm vụ được giao đối với công chức, viên chức và người lao động thuộc thẩm quyền quản lý; xây dựng và tổ chức thực hiện các giải pháp nâng cao quản trị doanh nghiệp hiện đại tại các doanh nghiệp do Ủy ban làm đại diện chủ sở hữu; quyết định các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền đầu tư của Ủy ban và thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế theo quy định của pháp luật.
Ủy ban chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và trước pháp luật về hiệu quả sử dụng, bảo toàn và gia tăng tổng giá trị danh mục vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp được giao quản lý; không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, hoạt động quản lý, điều hành của người quản lý doanh nghiệp; công khai, minh bạch trong đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp do Ủy ban làm đại diện chủ sở hữu.
Về cơ cấu tổ chức, Nghị định số 131 quy định, Ủy ban có Chủ tịch và không quá 04 Phó Chủ tịch do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo quy định của pháp luật. Ủy ban gồm 9 đơn vị trực thuộc, bao gồm: Vụ Nông nghiệp; Vụ Công nghiệp; Vụ Năng lượng; Vụ Công nghệ và hạ tầng; Vụ Tổng hợp; Vụ Pháp chế, kiểm soát nội bộ; Vụ Tổ chức cán bộ; Văn phòng; Trung tâm thông tin.
Theo Nghị định số 131, 19 tập đoàn, tổng công ty Nhà nước đang trực thuộc các bộ, ngành sẽ chuyển về trực thuộc Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước, chấm dứt vai trò quản lý trực tiếp của các bộ, ngành đối với những doanh nghiệp này. Ngoài SCIC, trong số 19 đơn vị được chuyển giao vốn về Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước, có 7 tập đoàn lớn là Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex); Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (Vinachem); Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN); Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN); Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam (VRG); Tập đoàn Công nghiệp than khoáng sản Việt Nam (TKV) và Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT).
Cùng với đó là 11 tổng công ty bao gồm: Tổng Công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines); Tổng Công ty Viễn thông MobiFone; Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam (Vinataba); Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines); Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam (VNR); Tổng Công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam (VEC); Tổng Công ty Cảng Hàng không (ACV); Tổng Công ty Cà phê Việt Nam (Vinacafe); Tổng Công ty Lương thực miền Nam (Vinafood 2); Tổng Công ty lương thực miền Bắc (Vinafood 1) và Tổng Công ty Lâm nghiệp Việt Nam (Vinafor).
Công cụ để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô
Việc thành lập Ủy ban là yêu cầu khách quan và cần thiết, nhất là trong bối cảnh bộ máy thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu chủ yếu là kiêm nhiệm, chưa chuyên trách, không theo kịp với yêu cầu của thực tiễn quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn Nhà nước. Đánh giá về vai trò của Ủy ban, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái từng nhấn mạnh, Ủy ban và các tập đoàn, tổng công ty đã góp phần quan trọng giúp ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh năng lượng; đồng thời, thể hiện rõ vai trò của các doanh nghiệp Nhà nước then chốt trong việc góp phần bảo đảm cân đối lớn của nền kinh tế, là công cụ để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, đối phó với những biến động thị trường và dịch bệnh.
Qua hơn 3 năm hoạt động, Ủy ban đã từng bước trưởng thành, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty trực thuộc để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Theo báo cáo của Ủy ban, trong năm 2021, 19 tập đoàn, tổng công ty trực thuộc Ủy ban đã đạt 99% kế hoạch doanh thu, vượt 62% kế hoạch về lợi nhuận trước thuế. Một số Tập đoàn, Tổng công ty có giá trị đầu tư thực hiện khá lớn là: Tập đoàn Điện lực Việt Nam ước đạt 18.194 tỷ đồng (90,1% kế hoạch), Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam ước đạt 5.095 tỷ đồng (97,2% kế hoạch), Tổng công ty Viễn thông MobiFone ước đạt 6.245 tỷ đồng (79,1% kế hoạch), Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước ước đạt 6.895 tỷ đồng (70% kế hoạch), Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam ước đạt 3.235 tỷ đồng (65% kế hoạch), Tập đoàn Dầu khí Việt Nam ước đạt 19.600 tỷ đồng (44% kế hoạch). Trong đó, nổi bật là triển khai một số dự án trọng điểm về năng lượng (các dự án Nhà máy: Thủy điện Hòa Bình mở rộng, Thủy điện Ialy mở rộng, Nhiệt điện Quảng Trạch I); một số dự án đầu tư xây dựng cảng hàng không (Long Thành, nhà ga hành khách T3 Tân Sơn Nhất, nhà ga hành khách T2 Cát Bi, mở rộng sân bay Điện Biên).
Bên cạnh đó, Ủy ban cũng thông qua chủ trương sắp xếp, tổ chức lại, thành lập các đơn vị hạch toán phụ thuộc của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Tổng công ty Viễn thông MobiFone; chỉ đạo các Tập đoàn, Tổng công ty thực hiện tái cơ cấu theo các đề án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Chỉ đạo thoái vốn Nhà nước tại 6 doanh nghiệp với tổng giá trị sổ sách 574,7 tỷ đồng, thu về 2.637,7 tỷ đồng (gấp 4,6 lần)...
Các tập đoàn, tổng công ty cũng đã phát huy vai trò, trách nhiệm tiên phong trong việc ủng hộ Quỹ vắc-xin phòng, chống COVID-19 với số tiền 2.565 tỷ đồng; chủ động triển khai nhiều hoạt động từ thiện, chương trình an sinh xã hội góp phần hỗ trợ, chia sẻ khó khăn trong cuộc sống của người dân; huy động cơ sở vật chất, kỹ thuật, hỗ trợ nhân lực, vật lực cho công tác phòng, chống dịch bệnh của cả nước như: Tổng công ty Hàng không Việt Nam, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam...
Trong năm 2022, Ủy ban sẽ thực hiện đồng bộ và toàn diện các giải pháp để hoạt động ngày càng chuyên nghiệp, hiệu quả hơn vai trò đại diện chủ sở hữu Nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty được giao quản lý; thực hiện linh hoạt, hiệu quả mục tiêu vừa chống dịch covid, vừa phục hồi, phát triển sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển./.