Nhằm tạo lập hệ thống cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ, nâng cao hiệu quả đầu tư công, tại Kỳ họp thứ 7, ngày 13/6/2019, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Đầu tư công. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2020 thay thế Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 28/2018/QH14. Với 6 chương, 101 Điều, Luật Đầu tư công năm 2019 đã thể chế hóa quy trình quyết định chủ trương đầu tư, tăng cường và đổi mới công tác thẩm định về nguồn vốn và cân đối vốn, đổi mới mạnh mẽ công tác lập kế hoạch đầu tư. Bên cạnh đó, một trong những nội dung quan trọng của Luật Đầu tư công là tăng cường công tác theo dõi, đánh giá, kiểm tra, thanh tra kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư công.
Công khai, minh bạch trong đầu tư công
Để nâng cao hiệu quả và giảm thiểu nguy cơ thất thoát vốn, tài sản nhà nước, Luật Đầu tư công năm 2019 đã quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tất cả các khâu liên quan đến quản lý và sử dụng vốn đầu tư công. Trong đó, quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu các tổ chức, cơ quan đơn vị liên quan đến việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư công nhằm bảo đảm tính công khai, minh bạch trong quản lý và sử dụng vốn đầu tư công.
Bên cạnh đó, Điều 14, Luật Đầu tư công năm 2019 quy định, công khai, minh bạch trong đầu tư công bao gồm 11 nội dung: (1) Chính sách, pháp luật và việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật trong quản lý và sử dụng vốn đầu tư công; (2) Nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công; (3) Nguyên tắc, tiêu chí, căn cứ xác định danh mục dự án trong kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm; (4) Kế hoạch, chương trình đầu tư công trên địa bàn; vốn bố trí cho từng chương trình theo từng năm, tiến độ thực hiện và giải ngân vốn chương trình đầu tư công; (5) Danh mục dự án trên địa bàn, bao gồm quy mô, tổng mức đầu tư, thời gian, địa điểm; báo cáo đánh giá tác động tổng thể của dự án tới địa bàn đầu tư; (6) Kế hoạch phân bổ vốn đầu tư công trung hạn và hằng năm, bao gồm danh mục dự án và mức vốn đầu tư công bố trí cho từng dự án; (7) Tình hình huy động các nguồn lực và nguồn vốn khác tham gia thực hiện dự án đầu tư công; (8) Tình hình và kết quả thực hiện kế hoạch, chương trình, dự án; (9) Tiến độ thực hiện và giải ngân của dự án; (10) Kết quả nghiệm thu, đánh giá chương trình, dự án; (11) Quyết toán vốn đầu tư công.
Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thực hiện việc công khai các nội dung đầu tư công theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, Luật Đầu tư công năm 2019 cũng quy định rõ các hành vi bị nghiêm cấm trong đầu tư công, cụ thể là các hành vi: Quyết định chủ trương đầu tư không phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; không xác định được nguồn vốn và khả năng cân đối vốn; không đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật ; Quyết định đầu tư chương trình, dự án khi chưa được cấp có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư hoặc không đúng với các nội dung về mục tiêu, phạm vi, quy mô, vượt tổng vốn đầu tư của chủ trương đầu tư đã được cấp có thẩm quyền quyết định. Quyết định điều chỉnh tổng vốn đầu tư của chương trình, tổng mức đầu tư của dự án trái với quy định của pháp luật về đầu tư công; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt, vụ lợi, tham nhũng trong quản lý và sử dụng vốn đầu tư công; Chủ chương trình, chủ đầu tư thông đồng với tổ chức tư vấn, nhà thầu dẫn tới quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư chương trình, dự án gây thất thoát, lãng phí vốn, tài sản của Nhà nước, tài nguyên của quốc gia; làm tổn hại, xâm phạm lợi ích hợp pháp của công dân và của cộng đồng; Đưa, nhận, môi giới hối lộ; Yêu cầu tổ chức, cá nhân tự bỏ vốn đầu tư khi chương trình, dự án chưa được quyết định chủ trương đầu tư, chưa được phê duyệt, gây nợ đọng xây dựng cơ bản; Sử dụng vốn đầu tư công không đúng mục đích, không đúng đối tượng, vượt tiêu chuẩn, định mức theo quy định của pháp luật; Làm giả, làm sai lệch thông tin, hồ sơ, tài liệu, liên quan đến quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư, triển khai thực hiện chương trình, dự án; Cố ý báo cáo, cung cấp thông tin không đúng, không trung thực, không khách quan ảnh hưởng đến việc lập, thẩm định, quyết định kế hoạch, chương trình, dự án, theo dõi, đánh giá, kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm trong triển khai thực hiện kế hoạch, chương trình, dự án; Cố ý hủy hoại, lừa dối, che giấu hoặc lưu giữ không đầy đủ tài liệu, chứng từ, hồ sơ liên quan đến quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư, triển khai thực hiện chương trình, dự án; Cản trở việc phát hiện hành vi vi phạm pháp luật về đầu tư công.
Có thể nói, đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện công khai, minh bạch trong đầu tư công, góp phần tăng cường quản lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước.
|
|
Qua công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát thời gian qua cho thấy vẫn còn tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư công. Ảnh minh họa |
Theo dõi, kiểm tra, đánh giá, thanh tra, giám sát các chương trình, dự án đầu tư công
Luật Đầu tư công năm 2019 đã dành chương IV quy định các nội dung về thực hiện và theo dõi, kiểm tra, đánh giá, thanh tra, giám sát kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư công của tất cả các cấp, các ngành. Đây cũng là lần đầu tiên công tác theo dõi, đánh giá thực hiện kế hoạch đầu tư và các chương trình, dự án đầu tư công, đặc biệt các quy định về giám sát cộng đồng được quy định trong Luật đáp ứng được yêu cầu và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Theo đó, Luật Đầu tư công năm 2019 quy định, cơ quan chuyên môn quản lý đầu tư công tổ chức theo dõi, kiểm tra kế hoạch đầu tư công thuộc cơ quan, đơn vị quản lý với các nội dung như: Tình hình thực hiện quy định của pháp luật về đầu tư công; Việc lập, thẩm định, phê duyệt, giao kế hoạch đầu tư công; Việc lập, thẩm định, phê duyệt và thực hiện các chương trình, dự án được bố trí trong kế hoạch đầu tư công; Tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư công; Tình hình nợ đọng xây dựng cơ bản, lãng phí, thất thoát trong đầu tư công.
Việc đánh giá kế hoạch đầu tư công được thực hiện theo các giai đoạn: Đánh giá giữa kỳ và khi kết thúc kế hoạch (đối với kế hoạch đầu tư công trung hạn); đánh giá định kỳ hằng quý và hằng năm (đối với kế hoạch đầu tư công hằng năm). Nội dung đánh giá kế hoạch đầu tư công bao gồm: Mức độ đạt được so với kế hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt; tác động của kế hoạch đầu tư công trong việc thu hút đầu tư từ các nguồn vốn khác và kết quả phát triển kinh tế - xã hội; tính khả thi của kế hoạch đầu tư công; tình hình quản lý đầu tư công; tồn tại, hạn chế; nguyên nhân của tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện kế hoạch đầu tư công và các giải pháp xử lý.
Đánh giá chương trình, dự án bao gồm đánh giá ban đầu, đánh giá giữa kỳ hoặc giai đoạn, đánh giá kết thúc, đánh giá tác động và đánh giá đột xuất. Cụ thể: (1) Nội dung đánh giá ban đầu bao gồm: Công tác chuẩn bị, tổ chức, huy động các nguồn lực để thực hiện chương trình, dự án bảo đảm đúng mục tiêu, tiến độ đã được phê duyệt; những vướng mắc, phát sinh mới xuất hiện so với thời điểm phê duyệt chương trình, dự án; đề xuất các biện pháp giải quyết các vấn đề vướng mắc, phát sinh phù hợp với điều kiện thực tế; (2) Nội dung đánh giá giữa kỳ hoặc đánh giá giai đoạn bao gồm: Sự phù hợp của kết quả thực hiện chương trình, dự án so với mục tiêu đầu tư; mức độ hoàn thành khối lượng công việc đến thời điểm đánh giá so với kế hoạch được phê duyệt; đề xuất các giải pháp cần thiết, kể cả việc điều chỉnh chương trình, dự án; (3) Nội dung đánh giá cuối kỳ bao gồm: Quá trình thực hiện chương trình, dự án: hoạt động quản lý thực hiện chương trình, dự án; kết quả thực hiện các mục tiêu của chương trình, dự án; các nguồn lực đã huy động; các lợi ích do chương trình, dự án mang lại cho những đối tượng thụ hưởng; các tác động, tính bền vững của chương trình, dự án; bài học rút ra sau quá trình thực hiện chương trình, dự án và đề xuất các khuyến nghị cần thiết; trách nhiệm của tổ chức tư vấn, cơ quan chủ quản, chủ chương trình, chủ đầu tư, người có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; (4) Nội dung đánh giá tác động của chương trình, dự án bao gồm: Thực trạng kinh tế - kỹ thuật vận hành; tác động kinh tế - xã hội; tác động môi trường, sinh thái; tính bền vững của dự án; bài học rút ra từ chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư, thực hiện, vận hành chương trình, dự án; trách nhiệm của tổ chức tư vấn, cơ quan chủ quản, chủ chương trình, chủ đầu tư, người có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; (5) Nội dung đánh giá đột xuất bao gồm: Sự phù hợp của kết quả thực hiện chương trình, dự án đến thời điểm đánh giá so với mục tiêu đầu tư; mức độ hoàn thành khối lượng công việc đến thời điểm đánh giá so với kế hoạch được phê duyệt; xác định những phát sinh ngoài dự kiến (nếu có), nguyên nhân phát sinh ngoài dự kiến và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; Ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của những phát sinh ngoài dự án đến việc thực hiện chương trình, dự án, khả năng hoàn thành các mục tiêu của chương trình, dự án; đề xuất các giải pháp cần thiết.
Đối với việc theo dõi, kiểm tra chương trình, dự án, cơ quan chủ quản, chủ chương trình và chủ đầu tư, người có thẩm quyền quyết định đầu tư chương trình, dự án và cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư công thực hiện theo dõi, kiểm tra toàn bộ quá trình đầu tư chương trình, dự án theo nội dung và các chỉ tiêu đã được phê duyệt nhằm bảo đảm mục tiêu và hiệu quả đầu tư. Trong đó, chủ chương trình và chủ đầu tư kiểm tra chương trình, dự án được giao quản lý; cơ quan chủ quản, người có thẩm quyền quyết định đầu tư tổ chức kiểm tra ít nhất một lần đối với chương trình, dự án có thời gian thực hiện trên 12 tháng; cơ quan chủ quản, người có thẩm quyền quyết định đầu tư tổ chức kiểm tra khi điều chỉnh chương trình, dự án làm thay đổi địa điểm, mục tiêu, quy mô, tăng tổng mức đầu tư và trường hợp cần thiết khác; cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư công quyết định tổ chức kiểm tra chương trình, dự án theo kế hoạch hoặc đột xuất.
Bên cạnh đó, Luật Đầu tư công 2019 cũng quy định về giám sát đầu tư của cộng đồng và thanh tra đầu tư công. Theo đó, đối với các chương trình, dự án chịu sự giám sát của cộng đồng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp chủ trì tổ chức thực hiện giám sát đầu tư của cộng đồng và phản biện xã hội. Còn hoạt động thanh tra việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư công được thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư công là quy định khác của pháp luật có liên quan và phải gắn với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ thanh tra của các cơ quan, tổ chức, đúng trình tự, thủ tục thanh tra theo quy định của pháp luật về thanh tra.
Đảm bảo tính thống nhất, tránh chồng chéo, mâu thuẫn trong các quy định pháp luật
Sau gần 3 năm thực hiện Luật Đầu tư công năm 2019, có thể thấy công tác theo dõi, kiểm tra, đánh giá, thanh tra, giám sát kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư công đã đảm bảo trong từng khâu thực hiện kế hoạch, chương trình, dự án đều được tổ chức theo dõi, đánh giá, kiểm tra, thanh tra để quản lý và sử dụng nguồn vốn đầu tư công đúng mục đích, tiết kiệm và hiệu quả. Qua đó, góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư theo đúng mục tiêu, định hướng của chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, chống thất thoát, lãng phí, bảo đảm tính công khai, minh bạch trong quản lý đầu tư công.
Tuy nhiên, qua công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát thời gian qua cho thấy vẫn còn tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư công. Nhiều cuộc thanh tra, kiểm tra đã chỉ ra sai phạm trong quản lý, sử dụng vốn đầu tư công như: Việc phê duyệt chủ trương đầu tư chưa đúng quy định của Luật Đầu tư công; không thẩm định hoặc thẩm định không đúng quy định; việc chỉ định thầu thiếu căn cứ, chưa đủ điều kiện; phê duyệt hồ sơ mời thầu, kế hoạch lựa chọn nhà thầu chưa đúng quy định; chủ đầu tư chưa kiểm tra năng lực thực tế của nhà thầu so với hợp đồng xây dựng, chưa phê duyệt quy trình bảo trì công trình xây dựng; một số chủ đầu tư không thực hiện báo cáo giám sát đầu tư; tỷ lệ dự án được kiểm tra, giám sát tại một số địa phương thấp, thanh toán vượt giá trị nghiệm thu, quyết toán; thanh toán khối lượng không theo thiết kế và chưa điều chỉnh đơn giá vật liệu theo thời điểm thi công; chậm thu hồi các khoản tạm ứng quá thời gian quy định tại một số dự án; còn để xảy ra tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản…
Bên cạnh đó, ngay cả trong công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đầu tư công cũng có những tồn tại, bất cập. Cụ thể là các quy định pháp luật hiện hành chưa đề cao vai trò của cơ quan thanh tra, kiểm toán trong theo dõi, kiểm tra, đánh giá, kiến nghị xử lý việc tuân thủ pháp luật nói chung và pháp luật về quản lý vốn đầu tư công nói riêng của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Việc thực hiện quyền trong hoạt động thanh tra, kiểm toán quản lý vốn đầu tư công còn nhiều hạn chế, thiếu các quy định chế tài về thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính của kiểm toán nhà nước, nên không có cơ sở pháp lý để xử lý các hành vi vi phạm của đơn vị được kiểm toán và các tổ chức, cá nhân có liên quan mà chủ yếu áp dụng biện pháp nhắc nhở đã làm giảm hiệu lực hoạt động kiểm toán nhà nước nói riêng và tính nghiêm minh của pháp luật nói chung; hoạt động giám sát cộng đồng đối với các dự án đầu tư công còn khó khăn trong việc tiếp cận các văn bản, hồ sơ liên quan đến chươngg trình, dự án đầu tư công, nhất là các dự án liên quan đến giao thông, thủy lợi. Sự quan tâm của các cấp, các ngành và các đoàn thể nhân dân đối với công tác giám sát đầu tư của cộng đồng còn hạn chế, chưa tương xứng với vai trò, trách nhiệm giám sát của cộng đồng, nhân dân ở cơ sở.
Do đó, để triển khai hiệu quả Luật Đầu tư công năm 2019, qua đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công, bên cạnh việc tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát để bảo đảm bố trí vốn tập trung theo đúng các nguyên tắc, tiêu chí phân bổ vốn đầu tư công; giám sát chặt chẽ công tác đấu thầu, lựa chọn nhà thầu, cần điều chỉnh các đạo luật khác để đảm bảo tính thống nhất, tránh chồng chéo, mâu thuẫn và khắc phục những hạn chế, bất cập trong các quy định pháp luật./.