Ngày 15/3/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 67/2025/NĐ-CP nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 178/2024/NĐ-CP ngày 31/12/2024 về chính sách, chế độ đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và lực lượng vũ trang trong thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.
Mở rộng phạm vi điều chỉnh và bổ sung đối tượng áp dụng
Nghị định 67/2025/NĐ-CP đã mở rộng phạm vi điều chỉnh và làm rõ hơn các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc diện điều chỉnh. Cụ thể, Nghị định quy định chính sách, chế độ đối với người nghỉ việc (nghỉ hưu trước tuổi và nghỉ thôi việc); chính sách đối với người được bầu cử, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý có phụ cấp chức vụ thấp hơn hoặc thôi giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý; chính sách khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức tăng cường đi công tác tại cơ sở; chính sách trọng dụng người có phẩm chất, năng lực nổi trội; chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ, công chức, viên chức sau sắp xếp; và trách nhiệm thực hiện chính sách, chế độ đối với các đối tượng liên quan.
Đối tượng áp dụng cũng được sửa đổi, bổ sung để thực hiện kết luận của Bộ Chính trị. Đối tượng áp dụng bao gồm cán bộ, công chức, viên chức, người làm việc theo chế độ hợp đồng lao động trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị quy định tại Điều 1 và lực lượng vũ trang chịu tác động trực tiếp của việc sắp xếp tổ chức bộ máy, sắp xếp đơn vị hành chính các cấp.
Cụ thể, bao gồm công chức, viên chức không giữ chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý, cán bộ, công chức cấp xã, người làm việc theo chế độ hợp đồng lao động theo quy định trước ngày 15/1/2019 và người làm việc theo chế độ hợp đồng được áp dụng chính sách như công chức, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng và lao động hợp đồng hưởng lương từ ngân sách nhà nước thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam, sĩ quan, hạ sĩ quan hưởng lương, công nhân công an và lao động hợp đồng hưởng lương từ ngân sách nhà nước thuộc Công an nhân dân, người làm việc trong tổ chức cơ yếu, và cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý có nguyện vọng nghỉ việc để tạo điều kiện thuận lợi cho việc sắp xếp.
Ngoài ra, Nghị định còn áp dụng cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động hưởng lương từ ngân sách nhà nước trước ngày 15/1/2019 và lực lượng vũ trang còn đủ 5 năm trở xuống đến tuổi nghỉ hưu trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị tại Điều 1 nhưng không chịu tác động trực tiếp của việc sắp xếp bộ máy, mà thực hiện tinh giản biên chế, cơ cấu lại, nâng cao chất lượng.
Người làm việc trong chỉ tiêu biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước tại các hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở các cấp cũng thuộc đối tượng áp dụng nếu chịu tác động trực tiếp của việc sắp xếp. Nghị định cũng bao gồm cán bộ không đủ tuổi tái cử, tái bổ nhiệm theo Nghị định 177/2024/NĐ-CP và cán bộ đủ điều kiện tái cử, tái bổ nhiệm nhưng có thời gian công tác còn từ 2,5 đến 5 năm đến tuổi nghỉ hưu và có nguyện vọng nghỉ hưu trước tuổi. Bổ sung "hệ số chênh lệch bảo lưu lương"
Một điểm đáng chú ý là Nghị định 67/2025/NĐ-CP đã bổ sung "hệ số chênh lệch bảo lưu lương" vào việc xác định tiền lương tháng hiện hưởng để tính các chính sách, chế độ khi cán bộ, công chức, viên chức và người lao động nghỉ việc. Điều này nhằm đảm bảo quyền lợi của các đối tượng này. Tiền lương tháng hiện hưởng sẽ bao gồm mức lương theo ngạch, bậc, cấp bậc hàm, chức vụ, chức danh, chức danh nghề nghiệp hoặc mức lương theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động; các khoản phụ cấp lương theo quy định; và hệ số chênh lệch bảo lưu lương (nếu có).
Sửa đổi chính sách đối với người nghỉ hưu trước tuổi
Nghị định đã sửa đổi Điều 7 và bổ sung các Điều 7a, 7b để quy định cụ thể hơn về chính sách đối với người nghỉ hưu trước tuổi trong các trường hợp khác nhau.
Cụ thể, nếu còn từ đủ 02 đến đủ 05 năm đến tuổi nghỉ hưu theo Phụ lục I Nghị định 135/2020/NĐ-CP và đủ điều kiện hưởng lương hưu, sẽ không bị trừ tỷ lệ lương hưu. Họ còn được trợ cấp 05 tháng tiền lương hiện hưởng cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi và trợ cấp 05 tháng tiền lương hiện hưởng cho 20 năm đầu công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, cùng với 0,5 tháng tiền lương cho mỗi năm công tác có đóng bảo hiểm xã hội từ năm thứ 21 trở đi.
Trường hợp có đủ 15 năm công tác trở lên có đóng bảo hiểm xã hội và đủ điều kiện hưởng lương hưu tại thời điểm nghỉ trước tuổi thì được trợ cấp 04 tháng tiền lương hiện hưởng cho 15 năm đầu công tác và 0,5 tháng tiền lương cho mỗi năm công tác có đóng bảo hiểm xã hội từ năm thứ 16 trở đi.
Trường hợp còn trên 05 đến đủ 10 năm đến tuổi nghỉ hưu theo Phụ lục I Nghị định 135/2020/NĐ-CP và đủ điều kiện hưởng lương hưu, các đối tượng này cũng không bị trừ tỷ lệ lương hưu và được trợ cấp 04 tháng tiền lương hiện hưởng cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi. Các khoản trợ cấp cho thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội tương tự như trường hợp nghỉ sớm từ 2 đến 5 năm.
Đối với trường hợp nghỉ hưu trước tuổi do có đủ 15 năm trở lên làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nếu còn từ đủ 02 đến đủ 05 năm đến tuổi nghỉ hưu theo Phụ lục II Nghị định 135/2020/NĐ-CP và đủ điều kiện hưởng lương hưu cũng không bị trừ tỷ lệ lương hưu. Chính sách trợ cấp cho số năm nghỉ hưu trước tuổi và thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội tương tự như quy định tại điểm a khoản 12.
Điều 7a bổ sung quy định về chính sách đối với người nghỉ hưu trước tuổi do tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ (đối tượng tại khoản 2 Điều 2). Ngoài việc hưởng các chế độ quy định tại khoản 2 Điều 7 (tức là không bị trừ tỷ lệ lương hưu), đối tượng này còn được hưởng trợ cấp hưu trí một lần cho thời gian nghỉ sớm. Mức trợ cấp là 01 tháng tiền lương hiện hưởng nhân với số tháng nghỉ sớm so với tuổi nghỉ hưu theo Phụ lục I và II Nghị định 135/2020/NĐ-CP đối với người nghỉ trong vòng 12 tháng kể từ ngày 15/3/2025. Đối với người nghỉ từ tháng thứ 13 trở đi, mức trợ cấp này bằng 0,5 lần mức trợ cấp trên.
Điều 7b quy định chính sách nghỉ hưu trước tuổi đối với cán bộ không đủ tuổi tái cử, tái bổ nhiệm hoặc đủ điều kiện về tuổi tái cử, tái bổ nhiệm (đối tượng tại khoản 4 Điều 2). Họ cũng được hưởng các chế độ quy định tại khoản 2 Điều 7 (không bị trừ tỷ lệ lương hưu) và trợ cấp hưu trí một lần cho thời gian nghỉ sớm bằng 01 tháng tiền lương hiện hưởng nhân với số tháng nghỉ sớm so với tuổi nghỉ hưu theo Phụ lục I và II Nghị định 135/2020/NĐ-CP.
Sửa đổi, bổ sung nguồn kinh phí thực hiện chế độ
Nghị định 67/2025/NĐ-CP cũng có sự điều chỉnh về nguồn kinh phí để thực hiện các chính sách, chế độ. Đối với đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư, hoặc tự đảm bảo chi thường xuyên, kinh phí sẽ lấy từ nguồn thu hoạt động sự nghiệp và các nguồn thu hợp pháp khác. Trường hợp không đủ, có thể sử dụng các quỹ của đơn vị.
Đối với đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo chi thường xuyên do Nhà nước đặt hàng nhưng giá dịch vụ chưa tính đủ, ngân sách nhà nước sẽ cấp bổ sung.
Đặc biệt, ngân sách nhà nước sẽ cấp kinh phí cho người làm việc tại các hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ chịu tác động trực tiếp của việc sắp xếp, hợp nhất, sáp nhập; và cho các tổ chức hành chính kết thúc cơ chế tài chính đặc thù như đơn vị sự nghiệp công lập từ ngày 01/1/2025.
Nghị định cũng quy định rõ, các trường hợp đang thực hiện giải quyết chính sách, chế độ theo Nghị định số 29/2023/NĐ-CP nhưng chưa có quyết định thì sẽ được áp dụng theo Nghị định 67/2025/NĐ-CP. Các trường hợp đã được giải quyết theo Nghị định số 29/2023/NĐ-CP nhưng thời điểm nghỉ việc sau ngày 1/1/2025 cũng sẽ được áp dụng theo Nghị định mới.
Tương tự, các trường hợp đã được giải quyết theo Nghị định số 177/2024/NĐ-CP (đối với cán bộ không đủ tuổi tái cử, tái bổ nhiệm) hoặc Nghị định số 178/2024/NĐ-CP mà chính sách, chế độ thấp hơn so với Nghị định 67/2025/NĐ-CP thì sẽ được điều chỉnh bổ sung theo Nghị định mới. Các trường hợp nghỉ hưu trước hạn tuổi theo quy định trước ngày 1/1/2025 nhưng chưa có quyết định giải quyết chính sách, chế độ đến ngày 1/1/2025 cũng sẽ được áp dụng theo Nghị định này.
Nhìn chung, Nghị định 67/2025/NĐ-CP đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng nhằm hoàn thiện và đảm bảo quyền lợi cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và lực lượng vũ trang trong quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị./.