Việc kê khai tài sản và thu nhập là một trong những biện pháp quan trọng trong công tác phòng, chống tham nhũng, nhằm đảm bảo tính minh bạch, ngăn ngừa các hành vi tham nhũng trong hệ thống công quyền. Tuy nhiên, quá trình thực hiện quy định này đã và đang gặp phải nhiều vướng mắc và thách thức đáng kể. Một trong những vấn đề nổi bật là xác định đúng đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản, đặc biệt là đối với các chức danh tương đương với phó trưởng phòng.
Xác định đối tượng kê khai tài sản: Một vấn đề khó khăn
TS. Đinh Văn Minh, Nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp chế Thanh tra Chính phủ đã nhận định rằng, việc xác định đối tượng kê khai tài sản là một trong những vướng mắc lớn nhất trong quá trình thực hiện. Trước ngày 05/5/2022, chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể về danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo và các chức danh tương đương với phó trưởng phòng trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Điều này dẫn đến việc lập danh sách người có nghĩa vụ kê khai không thống nhất và chưa phù hợp với Kết luận số 35-KL/TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị về danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo và tương đương của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở.
Cụ thể, theo khoản 3 Điều 34 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, người giữ chức vụ từ phó trưởng phòng và tương đương trở lên tại các đơn vị sự nghiệp công lập là người có nghĩa vụ kê khai tài sản thu nhập. Tuy nhiên, việc xác định các chức danh tương đương với phó trưởng phòng trong các đơn vị này, như Phó trưởng khoa, phòng thuộc bệnh viện đa khoa tỉnh hoặc hiệu trưởng trường mầm non, vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Mâu thuẫn giữa các quy định pháp luật
Hiện nay, quy định về "phó trưởng phòng và tương đương" mới chỉ được nêu rõ trong Kết luận số 35-KL/TW, trong đó tại mục X nhóm III, Bảng danh mục các chức danh, chức vụ quy định: Phó trưởng phòng và tương đương bậc 2 gồm Phó trưởng phòng và tương đương của sở, các cơ quan, ban ngành, tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh; phó trưởng các đơn vị sự nghiệp trực thuộc sở, ngành cấp tỉnh. Với quy định này của Kết luận số 35-KL/TW, phó trưởng phòng và tương đương công tác tại các đơn vị sự nghiệp công lập là phó trưởng các đơn vị sự nghiệp trực thuộc sở, ngành cấp tỉnh.
Điều này gây ra khó khăn trong việc xác định đối tượng kê khai, dẫn đến nhiều đơn vị đã lập danh sách kê khai tài sản không chính xác. Một số đơn vị đã đưa các chức danh như hiệu trưởng trường mầm non, phó trưởng khoa, phòng thuộc trung tâm y tế huyện, quận, thị xã vào diện phải kê khai, mặc dù họ không thuộc đối tượng được quy định tại Kết luận số 35-KL/TW.
TS. Đinh Văn Minh cũng nhấn mạnh thêm về sự mâu thuẫn giữa Luật Phòng, chống tham nhũng và Luật Doanh nghiệp sửa đổi. Cụ thể, Luật Phòng, chống tham nhũng quy định đối tượng kê khai là những người giữ chức vụ từ phó trưởng phòng trở lên trong doanh nghiệp nhà nước, nhưng Luật Doanh nghiệp sửa đổi lại thay thế cụm từ "doanh nghiệp nhà nước" bằng "doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ". Sự không đồng nhất này đã tạo ra nhiều khó khăn và lúng túng trong quá trình triển khai thực hiện.
Những thách thức cụ thể
Ngoài những vấn đề về quy định chức danh, việc kê khai tài sản tại các cấp chính quyền địa phương cũng gặp không ít khó khăn. Cán bộ xã, phường, thị trấn được xác định là tương đương với phó trưởng phòng trở lên, bao gồm các chức danh như Bí thư Đảng ủy, Phó Bí thư Đảng ủy. Tuy nhiên, những chức danh này lại không được liệt kê trong danh mục tại Phụ lục III của Nghị định 130/2020/NĐ-CP, dẫn đến sự bối rối trong quá trình thực hiện tại các địa phương.
Một vấn đề khác mà TS. Đinh Văn Minh đề cập là sự khó khăn trong việc xác định doanh nghiệp nhà nước theo quy định mới. Trong khi Luật Phòng, chống tham nhũng yêu cầu kê khai tài sản đối với các chức danh phó trưởng phòng trở lên trong các doanh nghiệp có trên 51% vốn nhà nước, Luật Doanh nghiệp sửa đổi sau đó lại chỉ yêu cầu đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Sự thay đổi này không chỉ làm thay đổi đối tượng kê khai mà còn gây khó khăn trong việc tổ chức thực hiện các quy định về phòng, chống tham nhũng.