Một số điểm mới trong quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa

Thứ sáu, 18/03/2022 11:07
(ThanhtraVietNam) - Ngày 31/12/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 139/2021/NĐ-CP để thay thế Nghị định số 132/2015/NĐ-CP ngày 25/12/2015 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa. Trong đó quy định các hành vi vi phạm khi có hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan có thẩm quyền được chuyển từ nhóm hành vi vi phạm quy định về điều kiện của thuyền viên, người lái phương tiện tại Nghị định số 132/2015/NĐ-CP cho phù hợp.

Nghị định số 139/2021/NĐ-CP gồm 05 chương và 59 điều, có một số điểm mới sau:

1. Về bố cục của Nghị định

Nghị định gồm 05 chương (tăng 1 chương) và 59 điều (tăng 12 điều); riêng Chương II quy định về các hành vi vi phạm, hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả đã chia các hành vi vi phạm thành 7 mục (tăng 2 mục) so với Nghị định số 132/2015/NĐ-CP.

2. Về đối tượng điều chỉnh

Nghị định quy định cụ thể các đối tượng là tổ chức tại Điều 2 để đảm bảo phù hợp theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính, và để thuận tiện, rõ ràng, minh bạch hơn trong quá trình áp dụng.

3. Về các nhóm hành vi vi phạm

Nghị định điều chỉnh lại các nhóm hành vi tương ứng với 07 mục tại Chương II, tăng 02 mục so với Nghị định 132/2015/NĐ-CP, nhằm chuyển các hành vi có đối tượng bị xử phạt tương đồng về cùng  nhóm, tạo thuận lợi trong việc tra cứu, áp dụng, cụ thể:

- Mục 1: Vi phạm quy định về xây dựng, quản lý, khai thác, bảo vệ kết cấu hạ tầng và tổ chức các hoạt động trên đường thủy nội địa, được điều chỉnh theo hướng bổ sung một số hành vi và sửa đổi tên gọi so với Nghị định 132/2015/NĐ-CP để bao quát tất cả các hành vi được quy định trong nhóm này.

- Mục 2: Vi phạm quy định về điều kiện hoạt động của phương tiện, được sửa đổi tên so với Nghị định số 132/2015/NĐ-CP, tại mục này quy định các hành vi vi phạm về đăng ký, đăng kiểm của phương tiện, các điều kiện về bảo đảm an toàn, niên hạn sử dụng của phương tiện, yêu cầu đối với hoạt động đóng mới, hoán cải, sửa chữa phương tiện.

- Mục 3: Vi phạm quy định về điều kiện của thuyền viên, người lái phương tiện, được điều chỉnh theo hướng phân định cụ thể các hành vi vi phạm của từng chủ thể nhằm đảm bảo quy định chính xác nhất với từng chủ thể vi phạm; đối với chủ phương tiện, người thuê phương tiện (Điều 20); đối với thuyền viên, người lái phương tiện (Điều 21).

Đồng thời, bổ sung hành vi vi phạm về trách nhiệm của thuyền viên, người lái phương tiện khi có tai nạn giao thông đường thủy.

- Mục 4: Vi phạm quy tắc giao thông và quy định về tín hiệu của phương tiện, được điều chỉnh để bổ sung một số hành vi vi phạm phù hợp với thực tế.

- Mục 5: Vi phạm quy định về quản lý, khai thác cảng, bến thủy nội địa, khu neo đậu, được tách từ nhóm hành vi vi phạm quy định về khai thác cảng, bến thủy nội địa và vận tải đường thủy nội địa tại Nghị định 132/2015/NĐ-CP và được chỉnh sửa, bổ sung một số hành vi cho phù hợp.

- Mục 6: Vi phạm quy định về vận tải đường thủy nội địa, được tách từ nhóm hành vi vi phạm quy định về khai thác cảng, bến thủy nội địa và vận tải đường thủy nội địa tại Nghị định 132/2015/NĐ-CP và được chỉnh sửa, bổ sung một số hành vi cho phù hợp.

- Mục 7: Vi phạm quy định về hoa tiêu và vi phạm quy định khi có hoạt động thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa.

Các hành vi vi phạm quy định về hoa tiêu được tách từ nhóm hành vi vi phạm quy định về khai thác cảng, bến thủy nội địa và vận tải đường thủy nội địa từ Nghị định 132/2015/NĐ-CP cho phù hợp và cụ thể, rõ ràng hơn.

Các hành vi vi phạm khi có hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan có thẩm quyền được chuyển từ nhóm hành vi vi phạm quy định về điều kiện của thuyền viên, người lái phương tiện tại Nghị định số 132/2015/NĐ-CP cho phù hợp.

4. Về mức xử phạt

- Tổng kết đánh giá 05 năm thực hiện Nghị định số 132/2015/NĐ-CP cho thấy, các mức phạt quy định tại Nghị định số 132/2015/NĐ-CP còn thấp, chưa phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội hiện nay nên chưa đáp ứng việc phòng, chống vi phạm.

Mức phạt tại Nghị định số 132/2015/NĐ-CP cũng thấp hơn nhiều so với mức phạt đối với cùng hành vi vi phạm được quy định tại các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khác có liên quan như: Nghị định số 142/2017/NĐ-CP ngày 11/12/2017 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải, Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường …

Vì vậy, Nghị định đã có sự điều chỉnh theo hướng tăng mức phạt tiền đối với một số hành vi vi phạm nhằm bảo đảm yêu cầu phòng, chống vi phạm; phù hợp với sự phát triển của kinh tế - xã hội và phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính có liên quan.

- Nghị định đã tăng mức phạt và quy định rõ hơn đối với hành vi trang bị không đủ thiết bị, dụng cụ an toàn, dụng cụ cứu đắm, phòng cháy, chữa cháy, phòng ngừa ô nhiễm môi trường, dụng cụ neo đậu, dụng cụ liên kết phương tiện; hành vi không trang bị hoặc trang bị không đủ áo phao hoặc dụng cụ nổi cứu sinh cá nhân; hành vi không mặc áo phao cứu sinh hoặc không mang dụng cụ nổi cứu sinh khi tham gia giao thông trên phương tiện.

Đồng thời, quy định mức xử phạt được tính trên mỗi thiết bị, dụng cụ, mỗi áo phao, dụng cụ nổi cứu sinh cá nhân để đảm bảo yêu cầu phòng, chống vi phạm.

- Nghị định điều chỉnh hình thức và mức xử phạt bổ sung đối với một số hành vi cho phù hợp với quy định tại Điều 21, 25, 26 Luật Xử lý vi phạm hành chính.

leftcenterrightdel
Một số điểm mới trong  quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa

5. Về chia loại phương tiện

Nghị định đã điều chỉnh lại cách chia các nhóm phương tiện để áp dụng mức xử phạt phù hợp, tương ứng với mức độ nguy hiểm của hành vi, đảm bảo sự thống nhất với Điều 24 Luật Giao thông đường thủy nội địa và các văn bản quy định về nội dung.

6. Về bổ sung hành vi vi phạm

- Nghị định bổ sung một số hành vi vi phạm về xây dựng kè, đập thủy lợi, cầu, bến phà, phong điện, nhiệt điện, thủy điện, công trình vượt qua luồng trên không, dưới đáy luồng, các hoạt động khai thác tài nguyên, khoáng sản, khai thác, nuôi trồng thủy sản, hải sản, vui chơi, giải trí, thể dục, thể thao, lễ hội, họp chợ… tại Mục 1 (Điều 5, 12, 13, 14) do đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội ngày một phát triển, các hoạt động xây dựng, khai thác khoáng sản, vui chơi, giải trí, thể dục, thể thao và nhiều hoạt động khác liên quan đến hoạt động giao thông đường thủy nội địa thường xuyên được tổ chức thực hiện.

Tại Nghị định số 08/2021/NĐ-CP ngày 28/01/2021 của Chính phủ quy định về quản lý hoạt động đường thủy nội địa, Nghị định số 48/2019/NĐ-CP ngày 05/6/2019 của Chính phủ quy định về quản lý hoạt động của phương tiện phục vụ vui chơi, giải trí dưới nước… đã có sự bổ sung, điều chỉnh hoạt động này. Do vậy, việc điều chỉnh, bổ sung các hành vi nhằm đảm bảo sự phù hợp với thực tế và đảm bảo tương thích với hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành.

- Bổ sung một số hành vi như "điều khiển phương tiện không tuân theo chỉ dẫn của báo hiệu đường thủy nội địa hoặc chỉ dẫn của người điều tiết giao thông mà gây tai nạn giao thông, ùn tắc giao thông" tại Mục 4 (Điều 25), quy định mức phạt tiền cao nhất do thực tiễn gần đây xuất hiện nhiều phương tiện không tuân thủ quy định chỉ dẫn, báo hiệu, gây đâm va, dẫn tới hậu quả nghiêm trọng mà chưa có quy định xử phạt vi phạm nhằm răn đe, phòng ngừa.

- Bổ sung một số hành vi vi phạm quy định về đầu tư, khai thác khu neo đậu tại Mục 5 (Điều 27) nhằm đảm bảo sự tương thích đối với quy định tại Nghị định số 08/2021/NĐ-CP ngày 28/01/2021 của Chính phủ và phù hợp với thực tiễn khai thác loại hình dịch vụ này.

Đồng thời, quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với trường hợp khai thác cảng, bến thủy nội địa, khu neo đậu hết thời hạn hoạt động hoặc tổ chức cho phương tiện vào neo đậu bốc xếp hàng hóa, đón, trả hành khách tại các vị trí chưa được công bố, cấp phép hoạt động nhằm giảm thiểu tình trạng cảng, bến thủy nội địa, khu neo đậu hoạt động không phép, phá vỡ quy hoạch ngành, gây mất an toàn giao thông.

7. Về thẩm quyền xử phạt

Nghị định đã bổ sung nội dung Điều 42 để phân định rõ thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan có thẩm quyền xử phạt nhằm tránh chồng chéo và thuận lợi khi tra cứu, áp dụng.

Đồng thời, có sự điều chỉnh lại hạn mức xử phạt đối với một số chức danh có thẩm quyền xử phạt nhằm đảm bảo sự tương thích với Luật sửa đổi, bổ sung Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2020.

8. Về xác định khung tiền phạt, trọng tải phương tiện

Nghị định quy định việc xác định khung tiền phạt phương tiện, đoàn lai và phương pháp xác định trọng tải của phương tiện không đăng kiểm, không đăng ký (Điều 53).

Trong đó có các công thức tính toán để xác định trọng tải toàn phần của phương tiện.

9. Về quy đổi các đơn vị đo lường, tính toán

Nghị định quy định việc quy đổi một số đơn vị đo lường, tính toán để xác định dung tích phương tiện trong trường hợp giấy chứng nhận của phương tiện không ghi dung tích (Điều 54).

Việc quy định nguyên tắc, giá trị quy đổi đơn vị đo lường, tính toán nhằm định lượng cụ thể dung tích, trọng tải toàn phần, công suất máy trong một số trường hợp nhằm bảo đảm việc xử phạt vi phạm hành chính được rõ ràng, minh bạch và chính xác hơn.

10. Về chế độ thông tin trong hoạt động xử phạt vi phạm hành chính

Nghị định quy định tại Điều 56: “Trường hợp tước quyền sử dụng giấy phép, giấy chứng nhận khả năng chuyên môn, chứng chỉ chuyên môn, chứng chỉ hành nghề khác thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định xử phạt, người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt phải thông báo bằng văn bản hoặc hình thức khác cho cơ quan cấp giấy tờ đó và Cục Cảnh sát giao thông”.

Nghị định cũng quy định những nội dung chính trong thông báo gửi cơ quan cấp giấy tờ và Cục Cảnh sát giao thông để đảm tính đầy đủ, rõ ràng của quy định.

Nguyễn Văn Tuấn

Phòng Thanh tra chuyên ngành - Thanh tra Bộ GTVT

Ý kiến bình luận
Họ và tên *
Email *
Nội dung bình luận *
Xác thực *

Bản quyền thuộc Tạp chí Thanh tra