Một số vấn đề về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

Thứ hai, 25/05/2020 10:17
(ThanhtraVietNam) - Thời gian gần đây, một số cơ quan báo chí phản ánh việc bán bảo hiểm xe máy giảm giá, chiết khấu; giá 20.000 đồng/năm; bán bảo hiểm “vỉa hè”; hồ sơ bồi thường bảo hiểm khó khăn, phức tạp… Tạp chí Thanh tra sẽ cung cấp một số thông tin liên quan tới bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.

Góp phần đảm bảo an sinh xã hội

Xuất phát từ lợi ích chung của xã hội cũng như của từng thành viên trong cộng đồng, bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự (TNDS) của chủ xe cơ giới (bao gồm xe mô tô, xe máy) ra đời và triển khai tại hầu hết các nước trên thế giới và được đánh giá như là một trong số các giải pháp hữu hiệu thực hiện mục tiêu hỗ trợ một phần tài chính giúp cho chủ xe và người bị tai nạn khắc phục thiệt hại, ổn định cuộc sống khi không may xảy ra tai nạn giao thông, góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Bên cạnh đó, nhằm phát huy vai trò, ý nghĩa xã hội và tính chất nhân đạo của nghiệp vụ bảo hiểm này, ở Việt Nam, từ năm 1988, Chính phủ cũng đã quy định loại hình bảo hiểm này là loại hình bảo hiểm bắt buộc.

Sau hơn 10 năm thực hiện Nghị định số 103/2008/NĐ-CP, chế độ bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới đã góp phần đảm bảo an toàn giao thông và tăng cường trật tự xã hội thông qua các hoạt động giải quyết bồi thường bảo hiểm hỗ trợ cho nạn nhân tai nạn giao thông khắc phục hậu quả. Thời gian qua đã bồi thường bảo hiểm cho 593.658 vụ tai nạn giao thông, trung bình 9 triệu đồng/vụ; trong đó có 101.214 vụ tai nạn xe máy, trung bình 5 triệu đồng/vụ; thực hiện tuyên truyền, giáo dục nhận thức của chủ xe và cộng đồng về an toàn giao thông với đa dạng hình thức như phương tiện đại chúng và trực tiếp tới người dân... (tổng chi 21,6 tỷ đồng) và hỗ trợ xây dựng các công trình đề phòng, hạn chế tổn thất như hệ thống biển báo giao thông, đường tránh, công trình hộ lan...(75 công trình với tổng chi trên 90 tỷ đồng).

Theo báo cáo đánh giá của các Bộ, ngành có liên quan (Bộ Tài chính, Bộ Công an, Bộ Giao thông vận tải, UBQG về An toàn giao thông), các DNBH, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, Bộ Tài chính đã tổng hợp báo cáo kết quả thực hiện chế độ bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới trong giai đoạn 10 năm (2008-2017), cụ thể: Bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới đã đạt được nhiều kết quả tích cực như số lượt xe cơ giới tham gia bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới lên đến trên 110,3 triệu (số lượt xe máy vào khoảng 93,5 triệu); đã giải quyết bồi thường bảo hiểm cho 593.658 vụ tai nạn giao thông, trung bình 9 triệu đồng/vụ (101.214 vụ tai nạn xe máy, trung bình 5 triệu đồng/vụ).

Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng có liên quan (Bộ Tài chính, Bộ Công an, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam…) đã tích cực, chủ động trong công tác tập huấn, tuyên truyền và hướng dẫn triển khai bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới; Quỹ bảo hiểm xe cơ giới đã thực hiện chi hỗ trợ nhân đạo cho các nạn nhân tai nạn giao thông không thuộc diện đối tượng được bồi thường bảo hiểm; góp phần tăng cường nhận thức của chủ xe, lái xe về bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới thông qua phối hợp với Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Cục Cảnh sát giao thông, các địa phương thực hiện tuyên truyền giáo dục về bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới với nhiều hình thức và trên nhiều phương tiện truyền thông đại chúng..; hỗ trợ xây dựng 75 công trình đề phòng hạn chế tổn thất tai nạn giao thông tại hơn 42 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương với số kinh phí tài trợ trên 90 tỷ đồng góp phần đề phòng hạn chế tổn thất, tai nạn giao thông (tính đến hết 2019).

Kết quả trên thể hiện rõ ý nghĩa nhân đạo của chính sách, kịp thời hỗ trợ nạn nhân tai nạn giao thông nhanh chóng khắc phục tổn thất về người và tài sản, giúp cho không chỉ nạn nhân mà còn chủ xe, người điều khiển xe nhanh chóng ổn định cuộc sống, sinh hoạt và hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần thực hiện mục tiêu an sinh - xã hội của Đảng và Nhà nước.

Tuy nhiên, kết quả thực hiện thời gian qua cũng cho thấy bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới vẫn còn những tồn tại, vướng mắc cả về chính sách và công tác tổ chức, triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, một số quy định hiện hành về bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới không còn phù hợp, đồng bộ với hệ thống văn bản pháp luật có liên quan; mức trách nhiệm bảo hiểm theo quy định hiện hành chưa theo kịp với biến động ngày càng tăng về giá dịch vụ khám, điều trị, chăm sóc y tế và chi phí sửa chữa, thay thế tài sản bị thiệt hại trong các vụ tai nạn do xe cơ giới gây ra; hỗ trợ nhân đạo từ Quỹ bảo hiểm xe cơ giới chưa phát huy được vai trò của chính sách, chưa theo kịp xu thế phát triển trên thế giới.

Không chỉ vậy, hiện nay, phí bảo hiểm mặc dù đã được quy định trên cơ sở rủi ro liên quan phương tiện (đến loại xe, mục đích sử dụng xe) nhưng chưa căn cứ vào rủi ro liên quan chủ xe, lái xe (lịch sử tai nạn, vi phạm giao thông), do đó chưa phát huy tối đa vai trò công cụ kinh tế trong bảo đảm trật tự an toàn giao thông; một số quy định hiện hành về mẫu Giấy Chứng nhận bảo hiểm (CNBH), thời hạn bảo hiểm, hồ sơ bồi thường không còn phù hợp, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) và chủ xe, lái xe trong việc triển khai thực hiện hay tỷ lệ tham gia bảo hiểm của xe máy vẫn còn thấp, đạt khoảng và 30% đối với xe máy (trong tổng số gần 60 triệu xe máy) so với tỷ lệ tham gia lên đến 90% đối với xe ô tô (trong tổng số trên 3 triệu xe ô tô).

leftcenterrightdel
Ảnh minh họa - Internet 

Phản ánh gần đây của các cơ quan báo chí

Thời gian gần đây, trước thông tin từ ngày 15/5/2020 đến ngày 14/6/2020, cảnh sát giao thông tổng kiểm soát, được phép dừng tất cả các xe để kiểm tra giấy tờ, trong đó có Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới. Trước vấn đề đó, báo chí đăng nhiều bài phản ánh tình trạng bán bảo hiểm bắt buộc TNDS xe máy không tuân thủ đúng quy định pháp luật (đại lý giảm giá, chiết khấu 30% cho khách hàng, thời hạn bảo hiểm xe máy 2 năm, công ty bảo hiểm từ chối bồi thường đối với bảo hiểm “vỉa hè”, bảo hiểm xe máy bán với giá 20.000 đồng/năm); bên cạnh đó, hồ sơ bồi thường bảo hiểm còn có những khó khăn…

Về các vấn đề này, Bộ Tài chính cho rằng, theo quy định của pháp luật kinh doanh bảo hiểm DNBH được quyền chủ động bán sản phẩm bảo hiểm dưới các hình thức: Trực tiếp; thông qua đại lý bảo hiểm, môi giới bảo hiểm; thông qua đấu thầu; thông qua giao dịch điện tử; các hình thức khác phù hợp với quy định pháp luật. Trong đó, để làm đại lý, cá nhân phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định, bao gồm có chứng chỉ đạo tào đại lý bảo hiểm và phải ký hợp đồng đại lý với DNBH.

Như vậy. pháp luật hiện hành đã có quy định về hình thức bán sản phẩm bảo hiểm (bao gồm cả sản phẩm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới), điều kiện hoạt động đại lý bảo hiểm. Việc người dân có thể mua bảo hiểm từ công ty tới vỉa hè là phụ thuộc vào hình thức bán sản phẩm bảo hiểm của từng DNBH.

Theo quy định tại khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 8 Luật Kinh doanh bảo hiểm: “1. Bảo hiểm bắt buộc là loại bảo hiểm do pháp luật quy định về điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu mà tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ thực hiện.”. Nghị định số 103/2008/NĐ-CP cũng quy định chủ xe cơ giới và DNBH phải tham gia và bán bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới theo đúng Quy tắc, điều khoản, biểu phí do Bộ tài chính.

Triển khai trên thực tế, ngoài việc tham gia hợp đồng bảo hiểm TNDS bắt buộc, chủ xe cơ giới có thể thỏa thuận với DNBH để tham gia hợp đồng bảo hiểm tự nguyện về trách nhiệm đối với người ngồi trên xe (không phải lái xe). Phí bảo hiểm đối với bảo hiểm tự nguyện này là 10.000 đồng/người/năm, xe máy được chở tối đa 2 người có giá 20.000 đồng/2 người/năm, tương ứng với mức trách nhiệm bảo hiểm là 10 triệu đồng/người/vụ. Theo quy định hiện hành, DNBH được chủ động xây dựng, triển khai các sản phẩm bảo hiểm tự nguyện phù hợp với quy định pháp luật kinh doanh bảo hiểm và quy định pháp luật có liên quan.

Trường hợp có bằng chứng chứng minh doanh nghiệp bảo hiểm cho phép đại lý giảm giá các sản phẩm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bị xem xét, xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 33 Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày 16/9/2008 của Chính phủ.

Theo quy định tại Điều 14 Thông tư số 22/2016/TT-BTC, DNBH có trách nhiệm phối hợp với chủ xe cơ giới, người bị thiệt hại, cơ quan công an và các tổ chức, cá nhân có liên quan khác để thu thập Hồ sơ bồi thường và quy định rõ các tài liệu mà chủ xe cơ giới có nghĩa vụ cung cấp, các tài liệu DNBH có nghĩa vụ thu thập, cụ thể:

Đối với chủ xe, phải cung cấp các tài liệu liên quan đến xe, lái xe (giấy đăng ký xe, giấy phép lái xe...); các tài liệu chứng minh thiệt hại về người (Giấy ra viện, Giấy chứng nhận phẫu thuật, Hồ sơ bệnh án, Giấy chứng tử,...); các giấy tờ chứng minh chi phí mà chủ xe đã chi để giảm thiểu tổn thất hay để thực hiện theo chỉ dẫn của DNBH (Điểm c, Khoản 6, Điều 17).

DNBH có nghĩa vụ thu thập các tài liệu liên quan đến thiệt hại về tài sản (như hóa đơn sửa chữa, thay mới tài sản bị thiệt hại); các tài liệu liên quan của cơ quan có thẩm quyền về vụ tai nạn (như biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn, thông báo sơ bộ kết quả điều tra ban đầu vụ tai nạn giao thông...); biên bản giám định xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại do DNBH hoặc người được DNBH ủy quyền lập; các tài liệu có liên quan đến vụ tai nạn (nếu có) (Khoản 7, Điều 19).

Như vậy, quy định hiện hành đã được xây dựng theo hướng quy định rõ các loại tài liệu cần phải thu thập để chứng minh rõ mức độ trách nhiệm dân sự (lỗi, mức độ thiệt hại) của chủ xe cơ giới đối với bên thứ ba nhằm đảm bảo quyền lợi của tất cả các bên, bao gồm chủ xe và DNBH, hạn chế gian lận bảo hiểm và trục lợi chinh sách. Tuy nhiên, để giảm bớt gánh nặng thủ tục cho chủ xe, người lái xe, DNBH có trách nhiệm cho phối hợp với chủ xe cơ giới, nạn nhân và các bên liên quan để thu thập hồ sơ bồi thường bảo hiểm; đặc biệt việc thu thập các tài liệu liên quan đến tai nạn giao thông từ các cơ quan có thẩm quyền (cảnh sát giao thông, cảnh sát điều tra) là trách nhiệm của DNBH. 

Hiện nay, Bộ Tài chính đang trình Chính phủ dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 103/2008/NĐ-CP, theo đó đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về hồ sơ bồi thường bảo hiểm theo hướng giảm nhẹ gánh nặng thủ tục cho chủ xe, lái xe, tăng tính chủ động và trách nhiệm của các DNBH trong việc thu thập hồ sơ bồi thường, rút ngắn thời gian tạm ứng bồi thường; mở rộng phạm vi và mức chi hỗ trợ bồi thường nhân đạo từ Quỹ bảo hiểm xe cơ giới... Bộ Tài chính sẽ trình Chính phủ dự thảo Nghị định trong tháng 5/2020 (hiện Cục QLBH đã trình Bộ để xem xét, trình Chính phủ).

Chủ động kiểm tra, rà soát việc triển khai bảo hiểm bắt buộc TNDS

Ngay khi nhận được phản ánh của một số cơ quan báo chí, Bộ Tài chính đã có văn bản (Công văn số 189/QLBH-PNT ngày 20/5/2020) yêu cầu các DNBH thực hiện ngay một số công việc, cụ thể: Chủ động kiểm tra, rà soát việc triển khai bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới trong toàn hệ thống, đảm bảo thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Trường hợp phát hiện các hành vi vi phạm tiến hành chấn chỉnh, xử lý kịp thời.

Đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, cung cấp thông tin, giải thích rõ cho chủ xe về chính sách bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới. Trường hợp các DNBH vi phạm, tùy theo mức độ, Cục QLBH sẽ xem xét, xử phạt vi phạm hành chính theo quy định.

Bộ Tài chính sẽ giám sát theo dõi, cập nhật tình hình triển khai bán bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới qua để kịp thời có các công văn hướng dẫn, chỉ đạo các DNBH. Đồng thời, Bộ Tài chính sẽ sớm phối hợp với Bộ Công an, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, UBQG về An toàn giao thông và các cơ quan báo chí  thành lập các đoàn kiểm tra liên ngành để kiểm tra tình hình triển khai bán bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới, kịp thời phát hiện, xử phạt vi phạm hành chính các DNBH vi phạm quy định.

Bộ Tài chính sẽ phối hợp với các cơ quan liên quan và các DNBH tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền để người dân nắm rõ được chính sách, ý nghĩa của chính sách bảo hiểm bắt buộc TNDS xe cơ giới, từ đó, chủ động và tích cực tham gia. Song hành với đó, việc mở rộng mạng lưới phân phối, đa dạng hình thức cung cấp dịch vụ, đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng dịch vụ bảo hiểm; cũng như việc nâng cao trình độ, kỹ năng tư vấn của đội ngũ cán bộ khai thác bảo hiểm, chăm sóc khác hàng, đội ngũ đại lý bảo hiểm... là các vấn đề mà cơ quan quản lý, cũng như các DNBH phải thực sự chú trọng, đảm bảo phát huy tính nhân văn của chế độ này là bảo vệ tài chính cho các nạn nhân của các vụ tai nạn giao thông đường bộ thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản, ngay cả khi không xác định được xe gây tai nạn, xe không tham gia bảo hiểm hoặc tai nạn không thuộc phạm vi bảo hiểm.

Để giải quyết cơ bản, căn cơ mang tính lâu dài, hạn chế tối đa việc bán bảo hiểm như báo chí đã phản ánh thời gian qua, hiện nay Bộ Tài chính đã phối hợp với Bộ Công an, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tư pháp, UBQG về An toàn giao thông, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các DNBH xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 103/2008/NĐ-CP nhằm hoàn thiện chế độ bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới theo hướng: Ứng dụng thương mại điện tử trong việc bán bảo hiểm, cấp Giấy CNBH điện tử; tạo điều kiện cho DNBH chủ động thiết kế, xây dựng mẫu Giấy CNBH nhưng vẫn đảm bảo công tác kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chế độ bảo hiểm bắt buộc; mở rộng phạm vi và rút ngắn thời gian tạm ứng bồi thường nhằm kịp thời đảm bảo nạn nhân và gia đình có nguồn kinh phí điều trị y tế; mở rộng phạm vi và nâng mức hỗ trợ nhân đạo.

Mức phí bảo hiểm tương ứng với rủi ro của xe cơ giới (bao gồm xe máy), chủ xe và người lái xe; tăng mức trách nhiệm bảo hiểm cơ bản đảm bảo chi phí thực tế về giá dịch vụ khám, điều trị, chăm sóc y tế và chi phí khắc phục thiệt hại đối với tài sản; quy định linh hoạt thời hạn bảo hiểm theo hướng tối thiểu là 1 năm và tối đa là 3 năm đối với xe máy và tối thiểu là 1 năm và tối đa tương ứng với thời hạn kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của xe ô tô; cụ thể hóa hồ sơ bồi thường bảo hiểm theo hướng đơn giản hóa, tăng trách nhiệm và tính chủ động của DNBH nhưng vẫn đảm bảo phòng, chống gian lận bảo hiểm và xây dựng cơ sở dữ liệu bảo hiểm phục vụ mục tiêu quản lý, giám sát chặt chẽ việc thực hiện chế độ bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới (bao gồm xe máy).

Dự kiến trong tháng 5/2020, Bộ Tài chính sẽ trình Chính phủ xem xét, cho ý kiến đối với hồ sơ dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 103/2008/NĐ-CP.

Bộ Tài chính đang trong quá trình nghiên cứu, xây dựng dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2021. Bộ Tài chính sẽ nghiên cứu, đánh giá tác động và tiếp tục xin ý kiến rộng rãi của tất cả các bên liên quan, các đối tượng chịu tác động của chính sách để có cơ sở để xuất hoàn thiện chế độ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới, bao gồm quy định bảo hiểm TNDS bắt buộc đối với xe máy./.

Lan Anh

 

Ý kiến bình luận
Họ và tên *
Email *
Nội dung bình luận *
Xác thực *

Bản quyền thuộc Tạp chí Thanh tra