Làng ăn thịt chuột và câu chuyện lịch sử xây thành nhà Hồ

Chủ nhật, 13/05/2012 06:58
(ThanhtraVietnam) - Ngày Tết, nhà nào trong làng không có nồi thịt chuột đồng nấu đông thì xem như không có tết.

 Món “độc” của làng

Nằm ở phía cửa Đông thành nhà Hồ, làng Đông Môn, thuộc xã Vĩnh Long (Vĩnh Lộc – Thanh Hóa) được biết đến là một ngôi làng cổ xưa, còn lưu giữ lại nhiều nét truyền thống. Không những thế, làng còn nổi tiếng với một tục lệ khá lạ lùng: ăn thịt chuột trong ngày Tết.

 

Không giống với một số làng chuyên săn chuột để bán, người làng Đông Môn chỉ đào chuột để mang về ăn. Và cũng không phải quanh năm đi đào chuột mà chỉ có trong vòng 2 – 3 tháng cuối năm, giáp Tết nguyên đán.

 

Vào mùa khô, từ tháng 10 cho đến tháng Chạp âm lịch, sau khi lúa trên đồng đã thu hoạch và vụ đông cũng đã làm xong, dân trong làng lại rủ nhau ra đồng đào chuột để chuẩn bị cho những ngày Tết. Những nhà nào không đi đào chuột được thì mua lại của nhà khác.


Trong số cả chục món ăn ngày Tết, ngoài những thứ đã thành quen thuộc của Tết cổ truyền người Việt như bánh chưng, giò chả, dưa hành,… thì Tết của người làng Đông Môn còn bắt buộc không được thiếu một thứ nữa: đó là nồi thịt chuột đồng nấu đông. Dù ít dù nhiều, món thịt chuột trong ngày Tết nhất thiết là phải có.

 

Thịt chuột được bày ra đĩa, đặt trang trọng cùng các món khác trong mâm cơm cúng gia tiên. Khách quý đến nhà, ngoài các món khác thì thịt chuột cũng được đem ra để thết đãi. Chẳng cần biết khách ở xa đến có thích món này hay không, và dẫu khách có từ chối không ăn thì gia chủ vẫn cứ mời, bởi đó là tình cảm chân thành của gia chủ dành cho khách.


Chuột đồng được làm lông bằng cách thui lửa rơm, thay vì dùng bằng nước sôi như một số nơi. Sau đó được xát bằng lá xả và lá chanh là ta đã có món thịt chuột đồng hấp.

 

Theo người làng Đông Môn, thịt chuột sử dụng để làm thức ăn phải là thịt chuột đồng, bởi chỉ chuột đồng thì thì thịt mới thơm ngon, không hôi. Và không phải thịt chuột đồng mùa nào ăn cũng ngon, phải biết lựa chọn theo mùa. Thời điểm thịt chuột đồng béo và thơm ngon nhất chính là vào cuối vụ đông xuân (từ tháng 10 âm lịch trở đi), chuẩn bị bước sang mùa khô. Lúc này, nguồn thức ăn của chuột đồng dồi dào, ngoài thóc trên đồng, chuột còn ăn cả cua, cá, ốc từ những mương, đầm đang cạn nước.

 

Cách làm thịt chuột của người làng Đông Môn cũng khá cầu kỳ. Chuột  đồng đem thịt nhất nhiết phải là chuột sống, không phải chuột đã chết. Thay vì nhúng chuột vào nước sôi như một số nơi vẫn làm, khi chuốt lông, người làng Đông Môn vùi chuột vào tro nóng khoảng 5 – 10 phút. Chuột sau khi đã chuốt lông được thui trên lửa đốt bằng rơm cho đến khi vàng ươm. Cuối cùng, dùng lá xả và lá chanh chà xát lên thân chuột một lượt rồi mới đem mổ thịt. Phần đầu và đuôi chuột chặt bỏ, chỉ giữ lại phần thân.

 

Tùy theo khẩu vị và ý thích của từng người mà thịt chuột được người làng chế biến ra nhiều món khác nhau như: nướng, quay, xào xả ớt, om dưa, kho,… Riêng món nấu đông chỉ làm riêng trong ngày Tết.

 

Và câu chuyện lịch sử…

 

Ngày nay, nhiều người trong làng không còn nhớ rõ tục lệ ăn thịt chuột có từ khi nào. Chỉ biết rằng từ xưa lắm, người làng đã có tục lệ này, và cứ thế truyền lại cho cháu con. Hiếm hoi lắm mới có một vài cụ cao niên trong làng còn nhớ và kể lại. Đằng sau tục lệ của làng là cả một câu chuyện lịch sử buồn và dài, gắn liền với di tích Thành nhà Hồ…

 

Chuyện kể, tục lệ ăn thịt chuột vào ngày Tết của làng Đông Môn bắt đầu có từ thời nhà Hồ. Năm 1397, Hồ Quý Ly cho khởi công xây dựng thành Tây Đô với ý định dời đô từ Thăng Long vào Thanh Hóa. Vị trí chọn để xây thành có một phần phía Đông nằm trên địa phận của làng và được chọn làm cửa thành phía Đông (nên làng mới có tên gọi là Đông Môn – cửa Đông).


Cửa Đông thành nhà Hồ, cũng đồng thời là cổng làng Đông Môn trước kia.

 

Để đốc thúc việc xây thành, ngoài huy động tất cả quân lính và thợ thuyền ra, Hồ Quý Ly còn bắt hàng vạn dân chúng trong vùng tham gia phục dịch. Công việc xây thành rất khó khăn, nhiều người đã chết vì đá sập, kiệt sức hoặc bị quan lại trách phạt đánh đập. Có người đói quá, tối bèn lẻn ra bẻ trộm măng tre (trồng làm lũy xung quanh thành) để về luộc ăn, quan quân bắt được, liền chém đầu và treo trước cổng thành để răn đe dân chúng. Người dân vừa sợ vừa phẫn uất.

 

Khi xây thành, đoạn thành phía Đông qua làng Đông Môn không hiểu sao cứ xây xong lại bị đổ sụp xuống. Nghi ngờ tướng đốc xuất xây thành là Trần Công Sỹ có ý đồ làm phản, Hồ Quý Ly sai người bắt trói và đem chôn sống Công Sỹ. Vợ Công Sỹ là nàng Bình Khương biết tin bèn đến để kêu oan cho chồng nhưng không được, Hồ Quý Ly vẫn chém đầu Công Sỹ. Nàng đã đập đầu vào đá chết theo chồng (nay vẫn còn đền thờ dân làng Đông Môn lập để thờ nàng Bình Khương).

 

Không những thế, Hồ Quý Ly còn trách phạt dân làng Đông Môn vì tội xây thành chậm. Tất cả thóc gạo, trâu bò, lợn gà trong làng đều bị tịch thu để sung công, làm thức ăn nuôi quân lính xây thành. Cuối năm, khi trong làng không còn gì, người làng bèn rủ nhau ra đồng đào chuột, đem về giết thịt ăn tết.

 

Về sau thành tục lệ, người dân trong làng cứ đến những ngày giáp tết là ra đồng đào chuột về ăn, như một sự tưởng nhớ đến người xưa và cũng là để nhắc nhau đừng bao giờ quên câu chuyện dân làng bị trách tội, phải gánh chịu những hình phạt đau thương.

 

Giờ đây, tục lệ cúng gia tiên bằng thịt chuột nấu đông trong ngày tết của người làng Đông Môn đang dần bị mai một. Những gia đình còn giữ được tục lệ truyền thống này chỉ còn đếm trên đầu ngón tay. Và câu chuyện lịch sử đau thương kia một lúc nào đó cũng sẽ bị chôn vùi vào lãng quên nếu tục lệ kia không còn nữa, nhất là khi người làng không có ý thức giữ gìn./.

 

Hoàng Nguyễn

tranthanhhuyen
Ý kiến bình luận
Họ và tên *
Email *
Nội dung bình luận *
Xác thực *

Bản quyền thuộc Tạp chí Thanh tra