Trước hết, cần làm rõ nội hàm của hoạt động “kiểm soát quyền lực nhà nước”, “phòng, chống tham nhũng, tiêu cực”.
Kiểm soát quyền lực nhà nước là toàn bộ hoạt động xem xét, theo dõi, đánh giá của các thiết chế có thẩm quyền nhằm ngăn chặn, loại bỏ những nguy cơ, những hành vi, những việc làm sai trái của các chủ thể trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền lực nhà nước được sử dụng và thực hiện theo đúng Hiến pháp và pháp luật.
Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là tổng thể các hoạt động của hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội và toàn thể Nhân dân để phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng, tiêu cực nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, các tổ chức và của công dân, góp phần vào việc giữ ổn định và phát triển của toàn xã hội.
Như vậy, để hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đạt hiệu quả cần huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, các tổ chức và toàn thể Nhân dân. Các hoạt động này được tiến hành trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, hướng tới mục tiêu bảo đảm cho quyền lực nhà nước được sử dụng và thực hiện theo đúng Hiến pháp và pháp luật, thể hiện được ý chí của Nhân dân, bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, các tổ chức và của công dân.
Ở Việt Nam, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là một trong những nội dung quan trọng được đề cập trong các văn kiện Đại hội của Đảng, Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, quy định trong các bản Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác, tạo cơ sở chính trị và cơ sở pháp lý cho việc triển khai hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thời gian vừa qua. Đây không phải là vấn đề mới, tuy nhiên, đặt trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, trong đó nhấn mạnh tính thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, yêu cầu hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thì vấn đề này cần phải được luận giải để làm rõ hơn về cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong giai đoạn hiện nay.
Về cơ sở chính trị, Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân... Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”; “Nhà nước phục vụ Nhân dân, gắn bó mật thiết với Nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của Nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân”.
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhấn mạnh: “Các cấp uỷ, tổ chức đảng chỉ đạo rà soát, hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền, theo hướng quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó; phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm tập thể, cá nhân trong từng công đoạn giải quyết công việc và có chế tài xử lý nghiêm những hành vi vi phạm”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII tiếp tục nhấn mạnh vị trí, vai trò, tầm quan trọng và những quan điểm, định hướng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam trong thời gian tới. Cụ thể: Một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 được nêu trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam:“Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì Nhân dân phục vụ và vì sự phát triển đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức”; “Chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng và công tác dân vận của Đảng”; đồng thời khẳng định các đột phá chiến lược đó là: “Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật”.
Ngày 09/11/2022, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, trong đó có nhấn mạnh một trong những trọng tâm cơ bản là “hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực”.
Bên cạnh đó, Bộ Chính trị cũng ban hành một số văn bản trực tiếp chỉ đạo đối với hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực như: Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; Quy định số 32-QĐ/TW ngày 16/9/2021 của Bộ Chính trị về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11/7/2023 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ; Quy định số 131-QĐ/TW ngày 27/10/2023 của Bộ Chính trị quy định về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán; Quy định số 132-QĐ/TW ngày 27/10/2023 của Bộ Chính trị quy định về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
Về cơ sở pháp lý, lần đầu tiên vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước được quy định một cách chính thức trong Hiến pháp năm 2013. Khoản 3, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Thể chế hóa Hiến pháp năm 2013, các đạo luật liên quan đến kiểm soát quyền lực nhà nước và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, hình thành và thiết lập cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực phù hợp với vị trí, tính chất của từng thiết chế quyền lực như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thanh tra, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Tiếp công dân...
Hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, chỉ đạo sát sao và rất quyết liệt. Qua đó, đã đạt được những kết quả rất đáng ghi nhận: “Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến tích cực”; “công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng được chỉ đạo tập trung, quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, có nhiều đổi mới, có hiệu lực, hiệu quả, nhất là ở cấp Trung ương; hoạt động của cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra các cấp được tăng cường, ngày càng siết chặt kỷ luật, kỷ cương”; “nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng được phát hiện, điều tra, khởi tố, xét xử nghiêm minh, tạo sức răn đe, cảnh tỉnh, được cán bộ, đảng viên và Nhân dân hoan nghênh, đánh giá cao và đồng tình ủng hộ. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong Đảng và hệ thống chính trị từng bước được kiềm chế, ngăn chặn”.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, cũng còn một số hạn chế: “Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của Nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ”; “công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở một số địa phương, bộ, ngành chưa có chuyển biến rõ rệt; công tác phòng ngừa tham nhũng ở một số nơi còn hình thức. Việc phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí vẫn còn hạn chế, nhất là việc tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí trong nội bộ cơ quan, đơn vị còn yếu” và “tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”.
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Thứ nhất, cần có sự chuyển biến, nhận thức mới về vị trí, vai trò và cách thức thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong tình hình mới.
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc thượng tôn Hiến pháp và pháp luật là một yêu cầu rất quan trọng được đặt ra đối với mọi chủ thể trong xã hội, trong đó có cả các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Nhà nước dùng quyền lực để kiểm soát đối với xã hội nhưng Nhà nước cũng cần kiểm soát chính mình. Vấn đề này cần được nhận thức một cách đầy đủ và quán triệt thực hiện nghiêm trong toàn hệ thống chính trị. Và như vậy, để bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật được tuân thủ tuyệt đối thì việc hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là tất yếu khách quan.
Các cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo các cấp, các ngành cần nhận thức rõ hơn về mối quan hệ giữa kiểm soát quyền lực với phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Kiểm soát quyền lực là một trong những phương thức hữu hiệu để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Do đó, các cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo các cấp cần đẩy mạnh công tác kiểm soát quyền lực. Bao gồm: Kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước (kiểm soát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước thông qua các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán…) và kiểm soát quyền lực từ bên ngoài đối với bộ máy nhà nước thông qua các hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng, hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc, hoạt động giám sát của cơ quan truyền thông, báo chí cũng như phát huy vai trò giám sát của Nhân dân.
Với việc xác định “tiêu cực” chính là nguyên nhân sâu xa dẫn tới hành vi “tham nhũng”, tham nhũng là do chủ nghĩa cá nhân, do sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, kể cả cán bộ lãnh đạo cấp cao trong bộ máy nhà nước, vì vậy, công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay phải gắn liền với phòng, chống tiêu cực.
Nếu như trước đây tập trung hơn đối với công tác “chống” tham nhũng, thì hiện nay phải chú trọng cả công tác “phòng ngừa” tham nhũng, tiêu cực, để làm sao ngăn ngừa, triệt tiêu những điều kiện có khả năng phát sinh tham nhũng, tiêu cực. Kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Phòng, chống tham nhũng trong cả khu vực công và khu vực tư. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực phải được tổ chức triển khai một cách đồng bộ từ trung ương tới địa phương, trên tất cả các lĩnh vực. Phương châm và nguyên tắc xử lý đối với hành vi tham nhũng là “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”.
Thứ hai, hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành ngày 09/11/2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, nhấn mạnh mục tiêu: “Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội. Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, mở đường cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán". Như vậy, trong thời gian tới cần hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, bao quát hết mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Theo đó, tập trung rà soát hệ thống pháp luật, thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định hiện hành về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất giữa quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong các lĩnh vực, nhất là những lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực, như: Tài chính, ngân sách, tài sản công, đất đai, tài nguyên, y tế, giáo dục, thanh tra, kiểm toán, kiểm tra, hải quan, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án…
Hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực trong công tác xây dựng pháp luật để khắc phục tình trạng lồng ghép “lợi ích nhóm”, “lợi ích cục bộ” trong xây dựng pháp luật; kiểm soát quyền lực đối với nhánh thực thi quyền tư pháp để bảo đảm cho hoạt động xét xử công bằng, nghiêm minh, tránh tình trạng xét xử oan, sai cho người vô tội. Bên cạnh đó, với việc xác định “cán bộ là then chốt của then chốt”, trong thời gian tới cần hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể nhân dân và các cơ quan thông tin đại chúng trong quá trình hoạch định chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trong việc phát hiện, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Trước mắt, cần lựa chọn và tập trung triển khai các hình thức kiểm soát quyền lực phù hợp với năng lực thực tế của các tổ chức chính trị - xã hội như: Tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân; tổ chức các hoạt động lấy ý kiến đóng góp của Nhân dân đối với các dự án luật; phản ánh ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân, tổ chức việc tiếp công dân, tham gia công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, đặc xá; giám sát và phản biện xã hội ở một số nội dung, lĩnh vực phù hợp với điều kiện, năng lực của các tổ chức chính trị - xã hội.
Hoàn thiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, luật về giám sát của Nhân dân để thực hiện có hiệu quả phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật về bảo vệ người tố giác, tố cáo hành vi tham nhũng, tiêu cực qua đó phát huy tính tích cực, chủ động của người dân trong việc cùng với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Thứ ba, thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên.
Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên trong thực thi công vụ, ý thức sâu sắc hơn về trách nhiệm của mình trước Đảng và Nhân dân. Thực hiện tốt quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức. Phát động phong trào học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Đề cao trách nhiệm nêu gương, ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các cấp; thực hiện nghiêm các quy định nêu gương của Đảng, quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm, cán bộ giữ cương vị càng cao càng phải tiên phong, gương mẫu.
Thứ tư, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng; xử lý nghiêm minh, kịp thời cán bộ, đảng viên vi phạm.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng. Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực và có nhiều khiếu kiện, khiếu kiện kéo dài. Giải quyết dứt điểm những vụ việc gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân.
Xử lý kịp thời, kiên quyết, triệt để, đồng bộ, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp để kịp thời phát hiện, ngăn chặn ngay từ xa, từ đầu, giải quyết từ sớm, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng.
Kết hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với giám sát, thanh tra, kiểm toán nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Tăng cường phối hợp giữa giám sát, kiểm tra của Đảng với giám sát, thanh tra của Nhà nước và giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội để tăng cường sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát, kiểm tra, tránh chồng chéo, trùng lặp, lãng phí nguồn lực, không hiệu quả. Tăng cường kiểm tra, giám sát công tác cán bộ, gắn với kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền. Chú trọng đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy Uỷ ban kiểm tra các cấp; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp theo hướng chuyên nghiệp hoá./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, tập 2 Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, năm 2021;
2. Hiến pháp năm 2013;
3. Điểm mới trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, năm 2021;
4. Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”;
5. Quy định số 32-QĐ/TW ngày 16/9/2021 của Bộ Chính trị về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực;
6. Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11/7/2023 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ;
7. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.