Bên cạnh vai trò to lớn đã được ghi nhận trong công tác xây dựng Đảng vẫn còn những hạn chế, yếu kém trong phát huy VHKT. Tác giả đề xuất các nhóm giải pháp hướng vào khơi dậy, bồi đắp và phát huy những nền tảng trầm tích VHKT, từ đó tạo ra sức mạnh nội sinh trong đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ.
|
|
Hành trình xây dựng văn hóa kiểm tra, xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Ảnh minh họa, nguồn: lyluanchinhtri.vn. |
Có thể nói, công tác KTGS, KLĐ được Đảng ta đặc biệt coi trọng. Điều lệ Đảng tháng 10/1930 quy định: "Trách nhiệm của đảng viên và các đảng bộ là giữ theo kỷ luật của Đảng một cách rất nghiêm khắc" (2). Kể từ đó, KTGS, KLĐ ngày càng được củng cố, tăng cường qua các kỳ đại hội. Nghị quyết TW4 khóa XII xác định KTGS, KLĐ là một trong bốn nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng (3). Kết luận Hội nghị TW4 khóa XIII tiếp tục khẳng định: “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên vi phạm” (4) thể hiện rõ quyết tâm đấu tranh không khoan nhượng với tham nhũng, tiêu cực và những quan điểm sai trái, thù địch lợi dụng việc Đảng ta kiên trì, quyết liệt, xử lý nghiêm khắc đối với vi phạm kỷ luật đảng để công kích, bình luận thiếu tính xây dựng nhằm tác động đến nhận thức gây suy nghĩ mơ hồ, hoài nghi gắn với chiêu bài thâm độc “lặp đi lặp lại, mưa dầm thấm sâu”, tạo sự nghi kỵ dẫn đến chia rẽ đoàn kết nội bộ (5), từ đó chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ngay từ bên trong chiều sâu văn hóa, văn hóa Đảng, văn hóa trong công tác KTGS, KLĐ.
Văn hóa trong công tác KTGS, KLĐ của Đảng (gọi tắt là văn hóa kiểm tra - VHKT) là tổng thể những giá trị vật chất (6), tinh thần được hình thành, bồi đắp từ hoạt động KTGS, KLĐ, do đội ngũ cán bộ, đảng viên tạo ra thông qua công tác KTGS, KLĐ; là toàn bộ hệ thống cơ sở lý luận đạo đức, triết lý hoạt động của ngành Kiểm tra và của mỗi cán bộ, đảng viên biểu hiện qua những “trầm tích tri thức” kết tinh trong các quan điểm, đường lối, chỉ thị, nghị quyết... của Đảng luôn thấm đẫm quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò lãnh đạo của Đảng; những giá trị chuẩn mực trong hành vi ứng xử, đạo đức, nhân văn cách mạng.
Từ khi hình thành đến nay, VHKT đã góp phần nhận diện, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ; đi cùng với quá trình phát triển, VHKT góp phần bảo vệ Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và các lãnh tụ của Đảng; VHKT góp phần bảo vệ thành trì và thành quả cách mạng mà Đảng ta, Nhân dân và dân tộc ta dày công vun đắp dù phải đổi bằng sự hy sinh xương máu của lớp thế hệ cha anh đi trước và để giáo dục truyền thống, ghi tạc công lao to lớn cho lớp lớp thế hệ cháu con tiếp bước theo sau trong bối cảnh gần đây các thế lực thù địch với Chiến lược “diễn biến hòa bình”, đưa ra các luận điệu sai trái, quan điểm xuyên tạc, hòng phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng; từng bước làm cho cán bộ, đảng viên hoài nghi và người dân dao động tư tưởng, tình cảm, niềm tin với Đảng và Nhà nước; nhân cơ hội này, chúng thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và chiến lược “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”, phá hoại Đảng, Nhà nước và chế độ.
Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tăng cường giáo dục truyền thống văn hóa, lịch sử và cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc, không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên; thường xuyên đấu tranh ngăn chặn âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng” (7). Để bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ, việc tăng cường KTGS, KLĐ để tăng cường sức mạnh nội sinh, kiên quyết đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, luận điểm xuyên tạc, chống phá Đảng là đòi hỏi khách quan, nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên và cơ bản, lâu dài, VHKT thể hiện qua KTGS, KLĐ cần luôn được lắng đọng, ghi nhận và khẳng định qua từng mốc thời gian với vị trí, vai trò và những đóng góp chủ yếu ở những điểm cơ bản sau:
Một là: Bồi dưỡng tư tưởng, nhận thức đúng đắn về KTGS, KLĐ; chủ động phát hiện, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện (8).
Suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống dẫn đến vi phạm rất gần và có nguyên nhân từ nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ, thậm chí sai lệch về Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò lãnh đạo của Đảng, nhưng chưa được thường xuyên kiểm tra, giám sát để uốn nắn, giáo dục kịp thời. Một bộ phận cán bộ, đảng viên xa sút, lung lạc niềm tin, thoái chí chiến đấu, thiếu lương tâm, trách nhiệm trước Đảng, trước Nhân dân, vì lợi ích kinh tế, quyền lực trước mắt và tác động bởi những cám dỗ vật chất “viên đạn bọc đường” đã dao động, phai nhạt lý tưởng, đánh mất bản sắc văn hóa, VHKT và năng lực “tự vệ” dẫn đến đánh mất chính mình, vi phạm bất chấp quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, những điều đảng viên không được làm và trách nhiệm nêu gương, để lại hậu quả rất nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng, chính quyền... qua KTGS, KLĐ đã phát hiện, thu hồi tiền, tài sản chiếm dụng (9) và xử lý nghiêm vi phạm, khuyết điểm của một số tổ chức đảng, đảng viên gần đây minh chứng rất rõ điều này (10).
KTGS, KLĐ là hoạt động văn hóa, mang tính Đảng, tính đồng chí, đồng đội và tính nhân văn sâu sắc, dựa trên các nguyên tắc, phương pháp công tác đảng (11), lấy tự phê bình, phê bình và sửa chữa là chính để bài trừ cái xấu, cái hủ bại, cái phi văn hóa trong Đảng gắn với kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ; xuyên tạc Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. KTGS, KLĐ nhằm mục tiêu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; khơi dậy, phát huy những bản chất tiên phong, tốt đẹp, nhân văn: trách nhiệm nêu gương, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, Đảng ta “là đạo đức, là văn minh” để hướng tới xây dựng xã hội tươi đẹp dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh và CNXH đích thực.
Tính văn hóa, nhân văn trong KTGS, KLĐ hiện nay còn là nhận thức đúng, đầy đủ, đa chiều và toàn diện về thực hiện đường lối đổi mới của Đảng gắn liền với cuộc đấu tranh kiên quyết, kiên trì và dài lâu trong phòng, chống tham nhũng; căm thù “giặc nội xâm”; ghét những hành vi hủ bại, thói hư, tật xấu, những lối sống sa hoa, thoái hóa, biến chất, để từ đó chuyển biến trong nhận thức, có thái độ và hành động cụ thể không khoan nhượng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng; thông qua việc tham mưu cho các cơ quan hữu quan ban hành và tổ chức thực hiện nhiều văn bản để hiện thực hóa nhiệm vụ quan trọng này (12). Tính thống nhất nhận thức, hành động chỉ có được khi mọi cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên đều hiểu rõ, thấm nhuần sâu sắc và thừa nhận vô điều kiện các giá trị chuẩn mực chung của VHKT là nghiêm túc và tự giác tuân thủ kỷ luật Đảng; chủ động tự nguyện, tự giác chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các chủ trương, đường lối, chỉ thị, nghị quyết, quy định, quyết định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Từ nhận thức đúng sẽ có tư tưởng, tình cảm và hành động đúng, theo đó, mọi suy nghĩ, hành động về quyền lợi, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên đều chịu ảnh hưởng và thấm đẫm văn hóa Đảng, VHKT của Đảng.
Hai là: Xây dựng hình tượng “cán bộ kiểm tra đảng” có tác phong, phong cách giao tiếp, ứng xử văn hóa, đúng vai, thuộc bài trong KTGS, KLĐ, góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ.
Chế độ ta là chế độ dân chủ, Nhân dân là chủ và làm chủ; tuân thủ nguyên tắc dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát và thành quả cách mạng đạt được là để Nhân dân thụ hưởng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hơn thế, Đảng ta sinh ra là để phục vụ Nhân dân và mãi gần dân, gần gũi, gắn bó máu thịt với Nhân dân. Nội dung này cần được kiểm chứng thường xuyên và bồi đắp qua đời sống thực tiễn. Theo đó, hoạt động KTGS, KLĐ diễn ra trên nền nguyên tắc tập trung dân chủ, phê bình, tự phê bình; trao đổi, chất vấn, tranh luận giữa đúng - sai, phải - trái; giữa chủ thể và đối tượng KTGS, KLĐ là đồng chí và cũng là Nhân dân hiểu theo nghĩa rộng, nên tác phong, phong cách giao tiếp yêu cầu ứng xử thiện chí, văn hóa và khả năng phê bình, tiếp nhận phê bình tốt; từ đó, việc rèn giũa tính cách điềm đạm, tôi luyện kỹ năng thiện chí, tế nhị, thấu hiểu, chia sẻ và cảm thông, mềm dẻo linh hoạt nhưng kiên quyết, đúng vai, thuộc bài, thể hiện bản lĩnh “người muốn rèn được thép phải có bản lĩnh cứng hơn thép”, hay “thép đã tôi thế đấy” của cán bộ kiểm tra đóng vai trò quyết định chất lượng, hiệu lực, hiệu quả và thành công trong công tác KTGS, KLĐ góp phần xây dựng Đảng, vì sự nghiệp cách mạng và an toàn, hạnh phúc của Nhân dân.
Vì KTGS, KLĐ là đi đến ngọn nguồn sự thật; nhằm phát hiện bản chất sự vật, hiện tượng được kiểm tra, VHKT góp phần xây dựng, bồi đắp đạo đức, niềm tin, tinh thần trách nhiệm và kỹ năng nghề nghiệp “đúng vai, thuộc bài” cho cán bộ kiểm tra có nếp ứng xử “thấu tình, đạt lý” hay “lý lẽ phân minh, nghĩa tình trọn vẹn”. Công tác KTGS, KLĐ không chỉ đơn thuần phát hiện sai lầm, khuyết điểm để xử lý, trừng phạt, mà cao xa, sâu sắc và đầy tính nhân văn hơn là giáo dục, động viên, thuyết phục, giúp tổ chức đảng, đảng viên vi phạm nhận thức lại rõ hơn về trách nhiệm là đảng viên cộng sản để “tự soi, tự sửa” tránh “nhầm đường, lạc lối”, chủ động khắc phục, sửa chữa những thiếu sót, sai lầm, khuyết điểm; tích cực phát huy ưu điểm, “lấy cái đẹp, dẹp cái xấu” để phấn đấu vươn lên và ngày càng tiến bộ. VHKT còn khơi dậy những phê bình đúng, nâng cao trách nhiệm “đúng vai, thuộc bài” trong thực thi nhiệm vụ, phát huy những phong cách làm việc khoa học, dân chủ, gần gũi với Nhân dân, làm cho cái đúng, cái tốt phát huy, nảy nở tạo sức lan tỏa và khả năng nhân rộng “gương tốt”, trách nhiệm “nêu gương” ra cộng đồng và toàn xã hội; kịp thời khắc phục những yếu tố hạn chế, tiêu cực nảy sinh làm cản trở hay dìm bỏ quá trình hình thành VHKT, đi ngược lại chiều hướng phát triển của văn minh, văn hóa.
Ba là: Bản chất kiểm tra là khoa học, VHKT xây dựng những giá trị tinh thần, đạo đức, phong cách làm việc khoa học, bồi dưỡng phẩm chất tốt đẹp, luôn hướng tới “chân, thiện, mỹ" trong công tác KTGS, KLĐ.
Bản thân nội hàm VHKT nằm trong nội dung những nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, hướng dẫn về KTGS, KLĐ cũng hàm chứa những quy tắc ứng xử của đảng viên, của cấp ủy viên các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Nếu mọi đảng viên đều hiểu rõ, thấm nhuần và tuân thủ tuyệt đối các quy định KTGS, KLĐ thì chắc chắn Đảng ta sẽ ngày càng vững mạnh, hạn chế tối đa các vi phạm, sai phạm xảy ra, góp phần tạo ra sức lan tỏa lớn trong toàn xã hội về đạo đức, văn minh của Đảng. Từ trách nhiệm nêu gương, mỗi cán bộ, đảng viên tự là mỗi tấm gương sáng để tự soi và để làng nước soi vào phấn đấu. Đến nay, những nội dung này được thừa nhận, chấp nhận và có ý nghĩa không chỉ trong phạm vi tổ chức đảng mà còn tác động tích cực trong Nhân dân, được xã hội thừa nhận, tập thể cộng đồng ủng hộ.
Ghi nhận thời gian qua, KTGS, KLĐ được tiến hành thường xuyên, toàn diện, không ngừng, không nghỉ, không có vùng cấm, không có ngoại lệ với mục đích “trị bệnh cứu người” hay “kỷ luật một vài người để cứu muôn người” được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng kết luận: “Chúng ta rất nhân văn, nhân đạo, nhân ái, nhân tình… Nhưng vì sự tiến bộ chung, vì để mong nhiều người không mắc sai phạm, chúng ta phải kỷ luật; kỷ luật một vài người để cứu muôn người!” (13). VHKT còn hội tụ ở việc nhiều tập thể, cá nhân trong ngành Kiểm tra vinh dự được Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý; ngành Kiểm tra Đảng và Cơ quan UBKT Trung ương đã được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng; được Trung ương Đảng tin tưởng trao tặng bức trướng với nội dung: "Tuyệt đối trung thành, đoàn kết, trung thực, liêm khiết, kỷ cương và tận tuỵ" và nhiều nhiều phần thưởng cao quý khác nữa đang dần xứng đáng đến với ngành Kiểm tra trong tương lai. Đi cùng với những quy định, chuẩn mực có nội hàm VHKT như đảm bảo “phương pháp 5 dựa” (14) hay “chủ động, chiến đấu, giáo dục, hiệu quả” hoặc nguyên tắc đảm bảo “công minh, chính xác, kịp thời” và “tròn vai, thuộc bài” sẽ là những hành lang pháp lý quan trọng để tạo lập môi trường làm việc có văn hóa, phong cách làm việc khoa học đã và sẽ tiếp tục tạo dựng, khẳng định môi trường VHKT là văn hóa, văn minh, lành mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho KTGS, KLĐ phát huy vai trò, tác dụng, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả góp phần bảo vệ Đảng, Nhà nước và bảo vệ chế độ.
Với bề dày lịch sử 75 năm thấm đẫm VHKT, công tác KTGS, KLĐ sẽ góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn và kiểm soát quyền lực trong điều kiện một Đảng duy nhất lãnh đạo, cầm quyền bằng trí tuệ, tài năng và văn hóa. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Muốn kiểm soát có kết quả, phải có hai điều kiện: Một là việc kiểm soát phải có hệ thống, phải thường xuyên làm. Hai là, người đi kiểm soát phải là những người rất có uy tín và phải “khéo kiểm soát’” (15) Do vậy, hơn lúc nào hết, việc tiếp tục xây dựng VHKT, đào tạo và rèn luyện cán bộ ngành Kiểm tra “vừa hồng, vừa chuyên”, luôn hướng tới “chân, thiện, mỹ"; “có tài, có đức” xứng đáng danh hiệu là người chiến sĩ xung kích trên mặt trận đấu tranh với các sai phạm, tiêu cực trong Đảng gắn với đổi mới, nâng cao chất lượng KTGS, KLĐ và rộng ra là đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng có vị thế và tầm quan trọng đặc biệt.
Bốn là: Công khai dân chủ, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, xây dựng môi trường làm việc lành mạnh, đoàn kết, cởi mở, dân chủ, thẳng thắn, có lý, có tình hòa quyện với “tình người kiểm tra” trong công tác KTGS, KLĐ.
Việc kiên quyết, kiên trì trừng phạt những hành vi tham nhũng, tiêu cực trong Đảng làm cho Đảng ta ngày càng được khẳng định vị thế, vai trò và củng cố lòng tin từ Nhân dân và sự ủng hộ từ đông đảo quần chúng trong giai đoạn cách mạng mới với những thử thách mới. Từ đó Nhân dân ta đã lựa chọn, tiếp tục lựa chọn và tăng cường khối đại đoàn kết chặt chẽ xung quanh Đảng. Hơn nữa, “công khai, dân chủ, thận trọng, chặt chẽ” là chân lý đúng đắn tạo ra môi trường làm việc lành mạnh, đoàn kết, cởi mở, dân chủ, thẳng thắn, có lý, có tình và “thật thà với nhau” như quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời “Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ, cần phải thật thà tự xét và xét đồng chí mình, ai có khuyết điểm nào, thì phải thật thà cố gắng tự sửa chữa và giúp sửa chữa lẫn nhau” (16). Công khai chính là văn hóa, VHKT là phương thuốc quý nhất để “trị bệnh cứu người”, tạo dựng, khẳng định và duy trì lâu dài niềm tin trong Nhân dân, chống lại các luận điệu xuyên tạc, bịa đặt của các thế lực thù địch; chống được các “nhóm lợi ích”, “chủ nghĩa thân hữu” trong một số cơ quan, đơn vị. Gần đây, việc UBKTTW và các UBKT các tỉnh, các huyện đồng loạt công khai thông báo kết luận các sai phạm, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên sau các kỳ họp UBKT (17) thể hiện ưu thế áp đảo trong đấu tranh không khoan nhượng với tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm vừa qua là một ví dụ. Công khai để khẳng định vị thế, tầm quan trọng và giá trị VHKT, thể hiện tính nhân văn, chính danh, chính nghĩa thắng “hung tàn” của công tác KTGS, KLĐ; để khẳng định quan điểm của Đảng “không dừng, không nghỉ”; “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai” và kiên định thực hiện quan điểm này trong công tác KTGS là sự thật.
Năm là: VHKT góp phần xây dựng Đảng toàn diện về mọi mặt khởi đầu từ văn hóa để tác động trở lại, thúc đẩy văn hóa trong Đảng phát triển, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần xã hội trong sáng, lành mạnh là tiền đề quan trọng cho phát triển toàn diện xã hội.
Là một bộ phận của văn hóa nói chung, văn hóa Đảng, VHKT sẽ đi cùng với các binh chủng xây dựng Đảng thúc đẩy văn hóa trong Đảng phát triển toàn diện. Tuy nhiên, để tự thân VHKT thì không thể tự thể hiện được mà phải thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên được đào tạo, rèn luyện và mang trong mình VHKT với bản lĩnh vững vàng, góp phần mở rộng dân chủ, tự do tư tưởng, tăng cường trao đổi, tranh luận, xây dựng sinh thái văn hóa, đạo đức tự phê bình và phê bình với tinh thần đồng chí trong sáng, tôn trọng và sẻ chia với nhau, nghiêm túc, tự nguyện, tự giác, trung thực và đạo đức văn minh trên cơ sở các nguyên tắc và phương pháp công tác đảng, công tác KTGS, KLĐ.
Từ thực tiễn 75 năm ngành Kiểm tra đảng, KTGS, KLĐ gắn với kiên định thực hiện đường lối đổi mới 37 năm qua do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo và gần đây, từ nhiệm kỳ Đại hội XI đến nay cho ta dần thấy sáng rõ hơn vị trí, vai trò VHKT trong góp phần đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ.
Tuy nhiên, những đóng góp và ghi nhận còn ở mức độ khiêm tốn, trong phạm vi, giới hạn nhất định và chịu ảnh hưởng tác động bởi nhiều yếu tố kinh tế, xã hội… phức tạp đan xen cấm cản. Một bộ phận cán bộ đảng viên do bận rộn nhiệm vụ chuyên môn, nhận thức về ý thức, trách nhiệm VHKT chưa đồng đều; hệ thống các văn bản quy định, quy chế, hướng dẫn… về công tác KTGS, KLĐ đang ngày càng đầy đủ, hoàn thiện và đồng bộ, nhưng có chiều hướng, biểu hiện sơ cứng, “luật hóa” và “hành chính hóa” nặng thiên về xây dựng thành chế tài, chế định lạnh lùng và nghiêm khắc, thiếu tính mềm mại nhân văn tình người; nội hàm VHKT hàm lượng trong mỗi điều khoản và mỗi văn bản tuy đã có nhưng chưa nhiều, chưa thật đầy đủ, sâu sắc, toàn diện và phổ quát. Chưa có quy định hay chế tài cụ thể yêu cầu xây dựng VHKT trong bối cảnh sinh thái văn hóa Đảng, nhận thức, trình độ cán bộ, đảng viên và Nhân dân ngày càng được nâng cao, dân chủ trong Đảng và trong xã hội ngày càng được mở rộng. Từ tác động mặt trái của cơ chế thị trường bên cạnh một bộ phận cán bộ, đảng viên giàu lên nhanh chóng là khoảng cách phân hóa giàu nghèo ngày càng rộng ra, vi phạm của đảng viên và tổ chức đảng ngày càng tinh vi, phức tạp trên nhiều lĩnh vực, rất khó cho đoán định, nhận diện và xử lý, nhất là trong lĩnh vực tư tưởng, nhận thức đã tác động trực tiếp đến tâm tư, tình cảm của cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong không gian sinh thái VHKT; những góp nhặt trầm tích VHKT đóng góp cho sự phát triển xã hội ngày càng được bồi đắp, tôn tạo và gìn giữ qua nhiều hình thức, thể loại vật chất, tinh thần, từ các bài viết, tác phẩm, đề tài, đề án (18)… đã được ghi nhận. Tuy nhiên, vị trí, vai trò VHKT còn ẩn mình trong thành tích chung của sự nghiệp xây dựng Đảng và thành quả chung của công tác KTGS, KLĐ, chưa tách bạch rõ nét để khẳng định chỗ đứng. Trong thời gian đến, để những nền tảng trầm tích VHKT nêu trên tiếp tục được khơi dậy và phát huy từ đó tạo ra sức mạnh nội sinh trong đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ, chúng ta cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp như sau:
Một là, có thái độ đúng đắn, thống nhất trong nhận thức VHKT trong công tác KTGS, KLĐ là VHKT của Đảng, của mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên chứ không phải VHKT là của riêng có ngành Kiểm tra và cán bộ kiểm tra. Theo đó, khi xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện văn bản cần quan tâm gia cường nội hàm VHKT hàm lượng trong mỗi điều khoản và mỗi văn bản để mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng đều thấy rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và hình bóng VHKT của mình trong đó để “tự soi, tự sửa” để “vun trồng và bồi đắp” trầm tích VHKT. Từ đó, mỗi cán bộ, đảng viên luôn có ý thức, trách nhiệm xây dựng VHKT thông qua việc giữ gìn phẩm chất, tư cách của Người đảng viên Cộng sản trước kỷ luật Đảng một cách nghiêm túc và tự giác để phấn đấu, rèn luyện và gọt giũa ngày càng hoàn thiện mình hơn với ước vọng nhân văn vươn cao, vươn xa đạt đến tầm “chân, thiện, mỹ”.
Từ VHKT, công tác KTGS, KLĐ phải được tiến hành đồng bộ, thường xuyên, bài bản, toàn diện, công khai, dân chủ, thận trọng và chặt chẽ, trong đó lấy xây, phòng ngừa là chính; làm cho giám sát ngày càng phải mở rộng và toàn diện như “thiết bị radar phủ quét” đến mọi tổ chức đảng, mọi đảng viên; kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm để “định vị tọa độ chính xác” nhằm đạt được mục tiêu công tác xây dựng Đảng trong từng thời gian; thi hành kỷ luật đảng phải nghiêm minh, công minh, chính xác, kịp thời, đầy đủ, đúng người, đúng tội, không bỏ sót, bỏ lọt. Giám sát nhằm phát hiện, ngăn chặn vi phạm, khuyết điểm từ sớm, từ xa để phản ánh chiều hướng, cảnh báo nhắc nhở; kiểm tra để giữ nghiêm kỷ luật của Đảng; tạo “lằn ranh” cảnh báo, “đánh chặn” và kiên quyết xử lý với thái độ cứng rắn để kìm chế tham nhũng, tiêu cực và kiểm sóat quyền lực. Thực hiện tốt chức năng nhận thức của VHKT thông qua việc chú trọng thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ KTGS, KLĐ, tạo dựng “không gian sinh thái VHKT” và hình ảnh “cán bộ kiểm tra” hiện diện rõ nét trong công tác xây dựng Đảng. Tăng cường vai trò lãnh đạo, quản lý của các cơ quan chức năng về VHKT qua công tác xuất bản, dịch thuật, báo chí, truyền thông, internet và thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm trên lĩnh vực này. Chủ động phát hiện, đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng với những hành vi sai lệch, dời xa tôn chỉ mục đích của một số tờ báo và phóng viên gắn với kiên quyết xử lý dứt điểm các vi phạm, sai phạm. Kịp thời nhận diện, phát hiện để xử lý nhanh, tránh để phát tán các tài liệu, bài viết nhạy cảm, thiếu kiểm chứng, quan điểm cá nhân thêu dệt phản động trên các trang mạng độc hại đăng tải các tin, bài có nội dung xuyên tạc Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các lãnh tụ và phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.
Hai là, sử dụng có chất lượng, hiệu quả các binh chủng tuyên truyền và các phương tiện thiết bị truyền thông truyền thống, kết hợp với hiện đại và ứng dụng công nghệ để đẩy mạnh tuyên truyền về VHKT, về bản chất cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước bằng những số liệu có thật, chính xác. Phủ kín thông tin chính thống đi cùng với lọc bỏ triệt để thông tin rác, câu like, câu view… trên các phương tiện thông tin đại chúng, các mạng xã hội, các nền tảng công nghệ thông tin v.v… để phổ quát và nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, Nhân dân bằng cứ liệu minh chứng các mốc son lịch sử công cuộc xây dựng, bảo vệ, “đổi mới” để phát triển đất nước, về công tác KTGS, KLĐ nhằm bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ. Ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn tuyên truyền, xuyên tạc nhằm chống phá thành quả cách mạng Việt Nam. Từ đó lan tỏa qua mỗi cán bộ, đảng viên đến với người dân dần hình thành khả năng, “bản năng tự vệ” trong việc tiếp cận, sàng lọc, xử lý thông tin xấu, độc; tạo ra sức mạnh nội sinh tích cực, chủ động, tự giác tham gia phòng ngừa, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ bằng giác quan nhạy cảm chính trị của mỗi cá nhân.
Ba là, có quan điểm lịch sử, cụ thể, toàn diện cân nhắc đến tính nhân văn, nhân đạo, nhân ái, nhân tình, đậm nét VHKT để đảm bảo mỗi kết luận kiểm tra, giám sát là một văn bản mẫu mực “thấu tình, đạt lý, tâm phục, khẩu phục”. Khi tiến hành KTGS, KLĐ để xem xét vấn đề, giải quyết hay xử lý vụ việc cụ thể không chỉ đảm bảo thận trọng, chặt chẽ, kỹ lưỡng, khách quan, công minh, chính xác, kịp thời trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc, phương pháp và các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước mà còn thể hiện rõ hơn quan điểm lịch sử, cụ thể, toàn diện cân nhắc đến tính nhân văn, nhân đạo, VHKT và “tình người kiểm tra” để làm rõ hạn chế, khuyết điểm, vi phạm và nguyên nhân; đảm bảo mỗi kết luận kiểm tra, giám sát là một văn bản mẫu mực “thấu tình, đạt lý, tâm phục, khẩu phục”. Kiểm đếm đầy đủ hoạt động các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, cả những mặt được và chưa được cũng như những thiếu sót, yếu kém, khuyết điểm để xác nhận số liệu minh chứng người thật, việc thật đã tiên phong, duy trì và tiếp bước thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, cải thiện đời sống, tăng trưởng kinh tế; đảm bảo cho Nhân dân ta có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc thật sự; đất nước ta phát triển toàn diện và bền vững cả về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh; quan hệ đối ngoại rộng mở, từng bước nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế. Từ đó khẳng định tính tất yếu thắng lợi của cách mạng XHCN mà ta đang xây dựng. Đó là căn cứ sinh động, sát thực và chắc chắn nhất để bảo vệ vị thế, vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và củng cố lòng tin từ Nhân dân; đập tan các luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.
Bốn là, tiếp tục thực hiện tốt Kế hoạch số 226-TB/TW, ngày 03/3/2009 của Ban Bí thư về phổ biến, tuyên truyền công tác KTGS, KLĐ và gần đây là Kế hoạch số 26-KH/UBKTTW ngày 16/02/2022 của Ban Tuyên truyền - UBKTTW về việc tuyên truyền, phổ biến công tác KTGS, KLĐ năm 2022. Quán triệt, phổ biến, triển khai thực hiện đầy đủ, đồng bộ và toàn diện các văn bản của Trung ương, của cấp ủy các cấp về công tác KTGS, KLĐ. Thực hiện nghiêm túc Quy định số 69-QĐ/TW, ngày 06/7/2022 của Bộ Chính trị; Quyết định số 89-QĐ/TW, ngày 01/12/2022 của Ban Bí thư (19). Theo đó, cấp ủy các cấp cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo khẩn trương xây dựng, ban hành quy trình KTGS, KLĐ của chi bộ theo quy định tại Điều 2 của Quyết định số 89-QĐ/TW. Tuyên truyền, phát động hưởng ứng phong trào thi đua lập thành tích chào mừng kỷ niệm 75 năm thành lập ngành Kiểm tra (16/10/1948-16/10/2023). Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, mở rộng quan hệ hợp tác đối ngoại, giao lưu văn hóa với các nước trong khu vực và trên thế giới về văn hóa Đảng, văn hóa chính trị và VHKT.
Năm là, chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để nâng tầm lý luận về công tác KTGS, KLĐ. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện KTGS, KLĐ gắn với đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng trên cơ sở kiên định thực hiện đường lối đổi mới đi cùng với bảo vệ thành quả cách mạng và phát triển đất nước. Do đó, KTGS, KLĐ trong sinh thái VHKT không chỉ thuần túy gắn với phòng, chống tham nhũng, phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc mà còn phải chủ động nhận diện và kiên quyết trong đấu tranh chống bảo thủ, giáo điều, cực đoan, duy ý chí và khắc phục hạn chế, yếu kém, sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.
Tóm lại, hành trình xây dựng VHKT, xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, trong đó không thể không nhắc đến vai trò của KTGS, KLĐ để VHKT của Đảng tiếp tục được bồi đắp và hun đúc góp phần định hướng nhận thức, bồi dưỡng tư tưởng, ý thức, niềm tin đúng đắn và tình cảm trong sáng, cao đẹp về công tác KTGS, KLĐ với phong cách giao tiếp, ứng xử có văn hóa đi cùng với xây dựng môi trường làm việc lành mạnh, đoàn kết, cởi mở, dân chủ, thẳng thắn, có lý, có tình trong công tác KTGS, KLĐ; VHKT, khi đó, như ngọn đèn pha sáng rọi trong tâm mỗi cán bộ, đảng viên tự tin vững mình tiến bước. Từ đó, thúc đẩy xây dựng văn hóa Đảng ngày càng phát triển tất yếu mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh ngày càng sáng rõ trong hiện thực cuộc sống và trong tương lai./.
Chú thích:
(1) Gồm các kết cấu hạ tầng, đất đai, trụ sở và các trang thiết bị được giao phục vụ công tác KTGS, KLĐ; các khu Nhà bia di tích, kho hiện vật truyền thống, sách báo tư liệu, dữ liệu điện tử của ngành; tư tưởng, niềm tin, truyền thống, con người của ngành v.v…
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2 (1930), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002, Trang 126.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết TW4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thóai về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ nhằm góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng” đã đề ra 4 nhóm nhiệm vụ, giải pháp cơ bản: Về công tác chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình; về cơ chế, chính sách; về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; về phát huy vai trò của Nhân dân và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Kết luận Hội nghị TW4 khóa XIII về “Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lỷ nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa” đã đề ra 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp cơ bản, trong đó có nhóm KTGS, KLĐ: “Tiếp tục….; Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực;…”.
(5) Một số thế lực phản động cho rằng những đảng viên vi phạm bị xử lý kỷ luật thời gian qua nhiều như vậy chẳng qua chỉ là sự “thanh trừng nội bộ”; “phe cánh”; “đấu đá nhau”.
(6) Gồm các kết cấu hạ tầng, đất đai, trụ sở và các trang thiết bị được giao phục vụ công tác KTGS, KLĐ; các khu Nhà bia di tích, kho hiện vật truyền thống, sách báo tư liệu, dữ liệu điện tử của Ngành; tư tưởng, niềm tin, truyền thống, con người của ngành v.v…
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Sự thật, t.1, Trang 41.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Sự thật, t.1, Tr.95: “…công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”.
(9) Trong nhiệm kỳ XII, UBKT các cấp qua kiểm tra, kết luận có 751 tổ chức đảng vi phạm về thu, chi ngân sách, sản xuất kinh doanh với số tiền trên 475 tỷ đồng; đề nghị xuất toán, thu hồi trên 290 tỷ đồng; BCHTW, BCT, BBT đã thi hành kỷ luật 10 tổ chức đảng (tăng 9 lần so với NK XI) và 59 đảng viên (tăng 247,1% so với NK XI). (Báo cáo số 219, ngày 17/12/2020 của UBKTTW báo cáo tổng kết công tác KTGS và thi hành kỷ luật nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng).
(10) Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay đã kỷ luật 67 cán bộ diện TW quản lý, trong đó có 13 ủy viên, nguyên ủy viên TW, 20 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang và một số cán bộ cấp cao (5 bộ trưởng, nguyên bộ trưởng; 7 bí thư và nguyên bí thư tỉnh/thành ủy; 18 thứ trưởng, nguyên thứ trưởng và tương đương; 13 chủ tịch và nguyên chủ tịch UBND tỉnh/thành phố);
(11) KTGS, KLĐ là công việc nội bộ của Đảng, khi tiến hành không sử dụng các biện pháp nghiệp vụ của cơ quan điều tra, cơ quan bảo vệ pháp luật…
(12) Sau 10 năm kể từ ngày thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa X, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành 29 văn bản; Quốc hội ban hành 14 văn bản; Chính phủ ban hành 22 văn bản; Thủ tướng Chính phủ ban hành 23 văn bản về công tác phòng, chống tham nhũng. Quốc hội (khóa XII, XIII) đã ban hành 175 Bộ luật; Chính phủ ban hành 1.311 nghị định, 604 Nghị quyết; Thủ tướng Chính phủ ban hành 6.110 Chỉ thị, Quyết định trên các lĩnh vực quản lý kinh tế - xã hội; cả nước ban hành mới hơn 34.885 văn bản và sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ 27.120 văn bản về chế độ, định mức, tiêu chuẩn trên các lĩnh vực. Các cấp ủy, tổ chức đảng đã ban hành 26.700 văn bản để lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng; tổ chức kiểm tra, giám sát 105.519 cuộc đối với các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc về phòng, chống tham nhũng; chỉ đạo xử lý 1.008 vụ việc, vụ án tham nhũng.
(13) Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2017); 70 năm truyền thống Ngành Kiểm tra Đảng, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội 2017, tr.17. Kiên quyết xử lý những tổ chức đảng, đảng viên cố tình vi phạm. làm ảnh hưởng đến uy tín của đảng, đến sự phát triển của đất nước. TBT. Nguyễn Phú Trọng.
(14) Hiện nay, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đang thực hiện 5 phương pháp, để thực hiện 5 phương pháp này cần phải dựa vào đối tượng để thực hiện từng phương pháp, hay gọi nôm là “5 dựa”. 5 phương pháp gồm: 1- Dựa vào tổ chức đảng; 2- Phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên; 3- Phát huy trách nhiệm xây dựng Đảng của quần chúng; 4- Phối hợp trong thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; 5- Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng.
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 2011, t.5, tr.327.
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 2011, t.5, Tr.273.
(17) Cụ thể về các vụ việc liên quan: Vụ Việt Á, AIC, FLC; Đại án các chuyến bay đưa công dân về nước trong đại dịch Covid 19; mua 95% cổ phần AVG v.v...
(18) Chỉ tính trong giai đoạn 1996 đến 2023, UBKTTW đã thực hiện 02 đề tài Độc lập cấp Nhà nước và trên 60 đề tài cấp Bộ để góp phần vào phát triển khoa học công nghệ của Việt Nam. Trong đó, trên 50% đề tài, đề án do Cơ quan chủ trì thực hiện được nghiệm thu đều có đóng góp thiết thực luận giải rõ về cơ sở lý luận, thực tiễn vào xây dựng các đề án trình Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Sản phẩm của các đề tài, đề án đều đã được sử dụng để tham mưu ban hành các chủ trương, đường lối, nghị quyết, quy định, chỉ thị, quy chế, kết luận v.v… và góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng, nội dung, phương thức hoạt động của UBKTTW và UBKT các cấp.
(19) Ban hành quy trình KTGS, KLĐ, giải quyết tố cáo, khiếu nại KLĐ của cấp ủy tỉnh và tương đương đến cơ sở.
Tài liệu tham khảo:
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương (2016), Nghị quyết Hội nghị TW4 khóa XII;
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương (2021), Kết luận Hội nghị TW4 khóa XIII;
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2 (1930), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002, Trang 126.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, Trang 19
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Sự thật, t.1, Tr.95.
(6) Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2020), Báo cáo số 219, ngày 17/12/2020 của UBKTTW báo cáo tổng kết công tác KTGS và thi hành kỷ luật nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng.
(7) Tạp chí Chính trị và Phát triển số 03/2022 ISN 1859-2457; Tr.19-29, Luận về đạo đức người đảng viên cộng sản. PGS.TS. Đoàn Minh Huấn, UVBCHTWĐ, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản.
(8) Tạp chí Chính trị và Phát triển số 03/2022 ISN 1859-2457; Tr.71-75, Văn hóa là sức mạnh nội sinh, động lực để xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam hiện nay. TS. Trương Thị Mai, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
(9) Tạp chí Kiểm tra số 4-2023; ISN 1859-3046; Tr.41-45; Cần quan tâm xây dựng văn hóa kiểm tra đảng. Th.S Trần Đình Đồng.
(10) Tạp chí Kiểm tra số 5-2023; ISSN 1859-3046; Tr.4-8; Tính nhân văn trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Nguyễn Hải Bình - Nguyễn Thị Hà Thủy.