Công dân khiếu nại (KN) Quyết định số 22/QĐ-UBND ngày 14/01/2016 của Chủ tịch UBND huyện Nam Trực về việc thu hồi GCNQSD đất số BG445716 ngày 06/10/2011.
Thửa đất liên quan đến nội dung KN có diện tích 430m2; diện tích đất này được hợp từ 02 thửa đất, gồm 160m2 đất thuộc một phần của thửa đất số 1536 và 270m2 đất thuộc thửa đất số 2287 (Tờ bản đồ số 3, Bản đồ địa chính xã Nam Hoa lập năm 1991, chỉnh lý năm 1994).
Theo Bản đồ lập năm 1985, diện tích đất 160m2 thuộc thửa đất số 540, tờ bản đồ số 3, diện tích toàn thửa là 1.130m2, loại đất “Ao”, ghi chủ sử dụng là “HTX”. Năm 1983, ông Đặng Hữu Chi (bố của bà Phi) có Đơn xin chuyển đổi diện tích đất 5% chăn nuôi lấy 1,45 sào ao nêu trên. Đơn đã được HTX, UBND xã Nam Hoa nhất trí và xác nhận ngày 25/4/1985.
Bản đồ địa chính xã Nam Hoa lập năm 1991, chỉnh lý năm 1994 thể hiện phần đất ao nêu trên thuộc thửa đất số 1536, tờ bản đồ số 3, diện tích 380m2, loại đất “Ao”, ghi chủ sử dụng là “UB”.
Năm 1993, xã Nam Hoa thực hiện việc giao ruộng cho các hộ gia đình theo Quyết định 115/QĐ-UB ngày 15/02/1992 của UBND tỉnh Hà Nam Ninh. Hộ ông Chi có 4 nhân khẩu (không có khẩu bà Phi, vì tại thời điểm này bà Phi đã lấy chồng và sinh sống ở địa phương khác) được giao đủ 2.005m2 theo tiêu chuẩn.
Năm 1994, hộ ông Chi đã được cấp GCNQSD đất đối với diện tích đất nông nghiệp được giao và diện tích đất ở đang sử dụng. Toàn bộ diện tích đất hộ ông Chi được giao và cấp GCNQSD đất không có diện tích đất ao nêu trên.
Sau đó, ông Chi vẫn sử dụng thửa đất ao với hình thức nhận khoán thầu của UBND xã Nam Hoa; UBND xã Nam Hoa đã thu của ông Chi số tiền 120.000 đồng về khoản “nộp hoa lợi công cộng đấu thầu 10 năm” (Phiếu thu số 22 ngày 12/11/2002) và 8.000.000 đồng về khoản “nộp tiền lệ phí cấp đất” (thu ngày 20/8/2004, nhưng không ghi rõ địa chỉ khu đất).
Năm 2003 bà Phi có Đơn xin cấp GCNQSD đất đối với diện tích đất ao nêu trên. Ngày 14/02/2005, UBND xã Nam Hoa xác nhận vào Đơn của bà Phi với nội dung “về hiện trạng sử dụng đất: đã xây nhà ở; về nguồn gốc sử dụng đất: xã cấp năm 1995”. Ngày 15/3/2005, ông Chi viết “Giấy chuyển đất” cho con gái là bà Đặng Thị Hồng Phi được toàn quyền sử dụng diện tích thửa đất ao nói trên. Giấy chuyển đất này chỉ có chữ ký của ông Chi và 04 người con của ông Chi, nhưng không được cơ quan nhà nước nào xác nhận.
Ngày 11/11/2008, UBND huyện Nam Trực đã ra Quyết định số 442/QĐ-UBND cấp GCNQSD đất cho các trường hợp sử dụng đất chưa hợp pháp tại xã Nam Hoa. Hộ bà Phi được cấp GCNQSD đất số AO283371, diện tích được ghi trong GCN là 160m2 (thuộc thửa đất số 1536, Tờ bản đồ số 3) mục đích sử dụng: Đất ở nông thôn, thời hạn sử dụng: Lâu dài.
Đối với 270m2 đất thuộc thửa đất số 2287, là diện tích đất bà Phi nhận chuyển nhượng từ em trai là ông Đặng Văn Ninh và đã được UBND huyện Nam Trực cấp GCNQSD đất số AC 690757 ngày 31/8/2005.
Đến năm 2011, bà Phi có Đơn xin hợp 160m2 đất thuộc thửa đất số 1536 và 270m2 đất thuộc thửa đất số 2287. Ngày 06/10/2011, UBND huyện Nam Trực cấp GCNQSDĐ số BG 445716 cho bà Phi (cấp đổi). Diện tích ghi trong GCNQSD đất là 430m2 thuộc thửa số 1536, tờ bản đồ số 3 (gồm 360m2 đất ở, thời hạn sử dụng lâu dài và 70m2 đất trồng cây hàng năm, thời hạn sử dụng đến tháng 12/2013).
Ngày 24/8/2015, Chủ tịch UBND huyện Nam Trực có Quyết định số 3359/QĐ-UBND thanh tra việc cấp GCNQSD đất cho bà Phi. Trên cơ sở Kết luận thanh tra, ngày 14/01/2016, Chủ tịch UBND huyện Nam Trực có Quyết định số 22/QĐ-UBND thu hồi GCNQSD đất số BG 445716 cấp ngày 06/10/2011 của bà Phi.
Mặc dù, nhất trí với nội dung Kết luận thanh tra và Quyết định thu hồi GCNQSD đất của UBND huyện Nam Trực nhưng bà Phi không thực hiện và tiếp tục có đơn đề nghị UBND huyện Nam Trực, UBND tỉnh xem xét giải quyết.
Ảnh minh họa, nguồn internet
Việc cấp GCNQSD đất ao cho bà Phi không đúng quy định của pháp luật
Sau khi xem xét, Chủ tịch UBND tỉnh Nam Định kết luận, việc cấp GCNQSDĐ đối với 270m2 đất thuộc thửa đất số 2287 của UBND huyện Nam Trực là hợp pháp vì diện tích đất này do bà Phi nhận chuyển nhượng từ em trai là ông Đặng Văn Ninh.
Diện tích đất ao 160m2 thuộc thửa số 1536 là đất do UBND xã Nam Hoa quản lý. Khi thực hiện giao ruộng theo Quyết định số 115/QĐ-UB ngày 15/02/1992 của UBND tỉnh Hà Nam Ninh, diện tích đất ao này không được cân đối để trừ tiêu chuẩn giao ruộng của hộ ông Chi mà là đất ông Chi được khoán thầu.
Ngày 20/8/2004, UBND xã Nam Hoa thu 8.000.000 đồng của ông Chi về khoản lệ phí cấp đất là việc giao đất trái thẩm quyền, trái quy định của pháp luật về đất đai. Theo quy định tại Khoản 3 Điều 15 Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ thì diện tích đất này không được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất, không được cấp GCNQSD đất, vì việc giao trái thẩm quyền này thực hiện sau ngày 01/7/2004. Do đó, việc ông Chi sử dụng diện tích đất này là không hợp pháp, ông Chi không đủ điều kiện chuyển quyền sử dụng diện tích đất này cho bà Phi; việc bà Phi sử dụng diện tích đất này là không hợp pháp.
Về Đơn xin đăng ký QSD đất của bà Phi: Bà Phi không viết Đơn này mà cán bộ địa chính xã Nam Hoa viết, là không đúng với quy định tại điểm 1 Chương 2 Thông tư số 1990/2001/TT-TCĐC ngày 30/11/2001 của Tổng Cục địa chính hướng dẫn đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và cấp GCNQSD đất.
Mặc dù, ngày 15/3/2005, ông Chi mới có “Giấy chuyển đất” cho bà Phi để làm nhà, nhưng trước đó (ngày 10/02/2003) bà Phi đã có Đơn đăng ký quyền sử dụng đất và được UBND xã Nam Hoa xác nhận ngày 14/02/2005, là không phù hợp với thực tế cũng như nội dung xác nhận của UBND xã Nam Hoa, không đúng nguồn gốc và hiện trạng khu đất. Đáng nói, đơn đăng ký QSD đất của bà Phi không có ý kiến thẩm định của cơ quan địa chính cấp huyện.
Như vậy, trình tự thủ tục cấp GCNQSD 160m2 đất thuộc thửa đất số 1536 cho bà Phi không đúng với quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 135 Nghị định 181/2004/CP-NĐ ngày 29/10/2004 của Chính phủ. Do đó, việc cấp GCNQSD đất số AO 283371 ngày 25/11/2009 cho bà Phi là không đúng quy định của pháp luật.
Xử lý hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý tổ chức, cá nhân vi phạm
Đối với việc cấp GCNQSD đất số BG 445716 ngày 06/10/2011 của UBND huyện Nam Trực, Chủ tịch UBND tỉnh kết luận: Thửa 1536 được cấp GCNQSD đất không đúng quy định của pháp luật, nên việc cấp GCNQSD đất số BG 445716 cũng không đúng quy định của pháp luật.
Căn cứ Khoản 4 Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai thì Chủ tịch UBND huyện Nam Trực thu hồi GCNQSD đất số BG 445716 do UBND huyện Nam Trực cấp ngày 06/10/2011 cho bà Phi là đúng quy định của pháp luật. Do đó, nội dung KN của bà Phi là không đúng.
Từ những căn cứ nêu trên, Chủ tịch UBND tỉnh quyết định công nhận và giữ nguyên nội dung Quyết định số 3749/QĐ-UBND ngày 24/12/2020 của Chủ tịch UBND huyện Nam Trực về việc giải quyết KN của bà Phi là đúng.
Đồng thời, giao Sở Tài nguyên và Môi trường chỉ đạo Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Nam Trực tiến hành thu hồi và quản lý GCNQSD đất số BG 445716 và hướng dẫn bà Phi làm thủ tục cấp lại GCNQSD đất đối với thửa đất số 2287, tờ bản đồ số 3, diện tích 270m2.
Mặc dù, KN của công dân là không đúng, song từ thực tế xác minh, giải quyết vụ việc, Chủ tịch UBND tỉnh giao UBND huyện Nam Trực tổ chức kiểm điểm, xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân có liên quan đến việc cấp GCNQSD đất số AO 283371 ngày 25/11/2009, chứng nhận bà Phi được quyền sử dụng 160m2 đất ở tại thửa 1536, tờ bản đồ số 3 không đúng quy định của Luật Đất đai. “Có hình thức xử lý hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật”, Quyết định nêu rõ./.
Minh Nguyệt