Kết quả đạt được và nguyên nhân
Thứ nhất, Đảng đã quan tâm lãnh đạo các cơ quan Nhà nước ban hành kịp thời các quy định, hướng dẫn về kiểm tra, giám sát trong đấu tranh PCTN. Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cơ quan tham mưu của Đảng đã ban hành nhiều chủ trương, giải pháp mới, mạnh mẽ, quyết liệt về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và PCTN; nhiều quy định, nghị quyết được quán triệt và thực hiện nghiêm túc, đi vào cuộc sống, có tác dụng cảnh báo, phòng ngừa có hiệu quả. Trên cơ sở đó, Nhà nước đã thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về kiểm tra, giám sát việc PCTN thành những quy định cụ thể tại các văn bản pháp luật. Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành chức năng đã quan tâm rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhiều quy định pháp luật về PCTN. Các văn bản được ban hành đã khắc phục một bước những sơ hở, bất cập trong các quy định của pháp luật làm phát sinh tiêu cực, tham nhũng.
Thứ hai, Đảng đã lãnh đạo kịp thời việc xây dựng phương hướng, nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát trong đấu tranh PCTN. Các cấp ủy, tổ chức đảng và Ủy ban Kiểm tra đã chủ động xây dựng phương hướng, nhiệm vụ kiểm tra toàn khóa và chương trình, kế hoạch kiểm tra hàng năm phù hợp với tình hình, đặc điểm địa phương, đơn vị, chủ động phát hiện dấu hiệu vi phạm, xác định nội dung, đối tượng và tổ chức kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm, chất lượng, hiệu quả được nâng lên. Ủy ban kiểm tra các cấp thời gian qua đã tham mưu, giúp cấp ủy kiểm tra, giám sát trong các lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao, dễ xảy ra sai phạm. Tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các ban cán sự đảng, đảng đoàn, các tổ chức đảng ở các cơ quan Nhà nước; nghiên cứu đổi mới cách thức kiểm tra, giám sát của cấp ủy để nâng cao khả năng phát hiện các hành vi tham nhũng. Tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm, đẩy mạnh phát hiện và kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm…
Thứ ba, Đảng đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo việc thực hiện phương hướng, nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát trong đấu tranh PCTN và chỉ đạo sát sao việc xử lý các vi phạm phát hiện qua kiểm tra, giám sát trong đấu tranh PCTN. Cấp ủy đảng, Ủy ban Kiểm tra các cấp đã tăng cường chỉ đạo, chủ động, quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm; tập trung lựa chọn đối tượng, lĩnh vực, địa bàn nhạy cảm, phức tạp, dễ phát sinh vi phạm, những vấn đề bức xúc mà cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm để tiến hành kiểm tra, giám sát; kết luận, làm rõ nhiều vi phạm, trên cơ sở đó quyết định hoặc đề nghị thi hành kỷ luật nghiêm minh, chính xác, kịp thời đối với nhiều tổ chức và cá nhân vi phạm. Trong nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng, Ủy ban kiểm tra các cấp đã tiến hành kiểm tra 55.250 đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, trong đó kiểm tra 2.957 đảng viên có dấu hiệu về tham nhũng, cố ý làm trái và kiểm tra 263 tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Đã thi hành kỷ luật 1.143 đảng viên vi phạm về tham nhũng và cố ý làm trái; giải quyết tố cáo đối với 1.303 đảng viên về tham nhũng và cố ý làm trái và 6 tổ chức đảng có vi phạm về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, trong đó kỷ luật nhiều đảng viên vi phạm. Sau hơn 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, cấp ủy, Ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 490 tổ chức đảng và 35 nghìn đảng viên vi phạm, trong đó có gần 1.300 đảng viên bị thi hành kỷ luật do tham nhũng, cố ý làm trái(2).
Với sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng, các cơ quan Thanh tra, Kiểm toán tập trung thanh tra, kiểm toán các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng, nhất là các dự án gây thất thoát, thua lỗ lớn, kéo dài, dư luận xã hội quan tâm. Công tác phát hiện, xử lý các vụ việc, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế của các cơ quan Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng được đẩy mạnh và có những chuyển biến tích cực, rõ nét, được coi là điểm sáng trong công tác PCTN thời gian gần đây. Nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, kể cả những vụ việc tồn tại từ nhiều năm trước đã được phát hiện, xử lý nghiêm minh, công khai, đúng pháp luật, rất nghiêm khắc nhưng cũng rất nhân văn; có lý, có tình, thể hiện rõ quan điểm "Nói đi đôi với làm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không có đặc quyền", góp phần nâng cao uy tín, sức chiến đấu của Đảng và cũng là biện pháp cảnh tỉnh, răn đe có hiệu quả.
Có thể thấy, qua công tác kiểm tra, giám sát, đã góp phần giải quyết các vụ, việc nổi cộm, phức tạp, được dư luận xã hội quan tâm; phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành; khắc phục, chấn chỉnh các hạn chế, khuyết điểm; xử lý kỷ luật hoặc yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm; thu hồi tiền, tài sản, đất đai cho Nhà nước. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới những chính sách, pháp luật không còn phù hợp hoặc còn thiếu...
Kết quả trên có được là do nhận thức của các cấp ủy đảng về công tác kiểm tra, giám sát đối với việc PCTN ngày càng nâng cao, thể hiện rõ quyết tâm của Đảng trong PCTN. Nhận thức được chức năng, nhiệm vụ của mình, Ủy ban kiểm tra các cấp đã chủ động triển khai các nhiệm vụ kiểm tra, giám sát công tác đấu tranh PCTN trong Đảng và phát huy vai trò tham mưu, giúp cấp ủy của Ủy ban kiểm tra trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện đấu tranh PCTN.
Sự phối hợp giữa Ủy ban kiểm tra với các ngành thanh tra, kiểm soát, công an, kiểm toán, ban chỉ đạo PCTN các cấp... ngày càng trực tiếp và hiệu quả, nhất là có cơ chế phối hợp, thông tin nhanh và giảm thủ tục hành chính. Nhiều đơn vị phối hợp đã chủ động cử người tham gia các đoàn kiểm tra, giám sát, tham dự các hội nghị giao ban, trao đổi vụ việc tạo sự thống nhất hành động tránh chồng chéo.
Bên cạnh đó, trước sức ép của dư luận, các cấp ủy đảng cũng phải chủ động, tích cực tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc kiểm tra, giám sát công tác PCTN và bản thân các cơ quan Nhà nước cũng nâng cao hơn nữa trách nhiệm thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm pháp luật.
Những tồn tại, hạn chế
Thứ nhất, việc tham mưu giúp cấp ủy xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát tại các cơ quan Nhà nước còn dàn trải, chưa tập trung vào những nội dung trọng tâm, lĩnh vực phức tạp, dễ phát sinh sai phạm, những vấn đề bức xúc mà dư luận quan tâm; chưa tập trung vào cán bộ chủ chốt, người đứng đầu ở những lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng. Việc tham mưu giúp cấp ủy kiểm tra thực hành tiết kiệm, chống lãng phí chủ yếu là kiểm tra chấp hành nên khó phát hiện hành vi tham nhũng.
Thứ hai, sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan Nhà nước trong thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát việc đấu tranh PCTN trên một số nội dung chưa được xác định rõ và phương thức lãnh đạo chưa phù hợp. Một số chủ trương, chính sách của Đảng chưa được đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm để uốn nắn, chấn chỉnh, sửa đổi, bổ sung kịp thời. Một số văn bản quy định về PCTN còn mang tính chủ trương, định hướng, chưa tạo cơ sở cụ thể cho các cơ quan Nhà nước thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng. Các văn bản về chống tham nhũng còn tản mát, chưa tạo được hệ thống văn bản pháp luật đồng bộ và hoàn chỉnh, gây khó khăn không nhỏ cho việc thực hiện nhiệm vụ đấu tranh chống tham nhũng của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Thứ ba, việc lãnh đạo tổ chức thực hiện kiểm tra, giám sát về PCTN vẫn còn có trường hợp chưa đúng quy trình, thủ tục, nguyên tắc. Việc kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và kiểm tra việc thi hành kỷ luật của tổ chức đảng cấp dưới ở một số nơi không có nhận xét, đánh giá, chưa chỉ ra thiếu sót, khuyết điểm của tổ chức đảng được kiểm tra vẫn khắc phục, sửa chữa, chưa có biện pháp theo dõi, đôn đốc các tổ chức đảng được kiểm tra chấn chỉnh sau kiểm tra nên tác dụng còn hạn chế. Một số nơi vẫn còn tình trạng hữu khuynh, nể nang, né tránh, không công bằng, không xử lý hoặc xử lý không đúng mức. Việc xem xét, xử lý kỷ luật một số cấp ủy, Ủy ban kiểm tra chưa làm tốt công tác thẩm tra, xác minh, chưa xác định đúng nội dung vi phạm, chưa phân tích, đánh giá đúng mức độ tác hại, tính chất, nguyên nhân vi phạm nên việc xử lý kỷ luật chưa thật chính xác..
Thứ tư, việc lãnh đạo xử lý các vi phạm phát hiện qua kiểm tra, giám sát trong đấu tranh PCTN một số nơi vẫn chưa quyết liệt, dứt điểm. Kết quả kiểm tra và xử lý kỷ luật chưa tương xứng với thực tế vi phạm, nhất là vi phạm về tham nhũng. Kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm đã được xác định là nhiệm vụ trọng tâm nhưng chất lượng, hiệu quả thực hiện còn hạn chế, còn nhiều nơi chưa thực hiện. Một số vụ việc đã kiểm tra nhưng xử lý chậm hoặc xử lý chưa kiên quyết, triệt để, dứt điểm nên chưa tạo được sự đồng tình của đảng viên, nhân dân.
Những tồn tại, hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến nguyên nhân do một số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa nhận thức đầy đủ, chưa thật sự coi kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo nên chưa gắn với quá trình lãnh đạo; chưa xây dựng được chương trình kiểm tra, giám sát cả nhiệm kỳ. Theo đó, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong tổ chức thực hiện một số nơi chưa sát sao, quyết liệt. Một số nơi người đứng đầu cấp ủy, tổ chức Nhà nước, đơn vị chưa có quyết tâm cao chống tham nhũng, thậm chí thiếu gương mẫu, nêu gương trong công tác và cả trong đạo đức, lối sống, bao che tham nhũng, trù dập người tích cực chống tham nhũng. Còn hiện tượng nể nang, ngại va chạm, nhiều cấp ủy, tổ chức đảng và Ủy ban kiểm tra ngại thực hiện nhiệm vụ này vì nể nang, nhất là khi kiểm tra cán bộ lãnh đạo. Đối tượng vi phạm thường kém tự giác, không nhận thức đúng vi phạm của mình, còn quanh co đổ lỗi cho khách quan, cho tập thể cho cấp dưới, gây khó khăn cho công tác kiểm tra.
Một nguyên nhân khác phải kể đến là do cơ chế, chính sách của Nhà nước chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ, còn bất cập. Cơ chế xử lý các trường hợp vi phạm không kiên quyết và nghiêm minh xảy ra khá phổ biến ở các cấp, các ngành, có nhiều trường hợp không gắn cơ chế xử lý kỷ luật với xử lý về kinh tế và xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan, đơn vị để xảy ra tiêu cực, tham nhũng.
Bên cạnh đó, công tác chỉ đạo thực hiện sự phối hợp giữa Ủy ban kiểm tra với các tổ chức đảng, cơ quan có liên quan trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát chưa chặt chẽ và thiếu đồng bộ. Công tác phối hợp giữa các cơ quan có chức năng, nhiệm vụ PCTN chưa đồng bộ, chồng chéo và cơ chế mạnh ai nấy làm không chủ động, tích cực chia sẻ thông tin với nhau.
Yêu cầu đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trong thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát công tác PCTN
- Cần nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với việc PCTN và quyết tâm cao của các cấp uỷ, tổ chức đảng, trước hết là người đứng đầu cấp ủy và thủ trưởng các cơ quan, đơn vị. Với quyết tâm chính trị cao trong PCTN và bằng công tác kiểm tra, giám sát đúng đắn, sáng tạo, cấp uỷ và Ủy ban kiểm tra các cấp hoàn toàn có thể tham gia hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ PCTN một cách có hiệu lực, hiệu quả qua một số vụ việc đã dẫn chứng phần trên, dù nhiều khi còn gặp không ít trở lực, cản ngăn, phản kích và đầy cam go, phức tạp.
Công tác kiểm tra, giám sát phải đảm bảo hiệu quả, đặc biệt là kiểm tra dấu hiệu vi phạm về tham nhũng của một số đảng viên có chức, quyền phải có sự lãnh đạo, quan tâm thường xuyên của Ban Thường vụ, thường trực cấp ủy, trong đó vai trò đồng chí Bí thư, Phó Bí thư và sự chỉ đạo tích cực của Uỷ ban kiểm tra cấp trên trực tiếp là những yếu tố hết sức quan trọng, nhất là đối với những vụ việc tham nhũng phức tạp.
- Đảng cần tập trung chỉ đạo rà soát, bổ sung điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị. Cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong việc PCTN, trong đó Ủy ban kiểm tra các cấp phải là lực lượng chủ công, nòng cốt trong việc PCTN trong Đảng. Nâng cao chất lượng hoạt động của Ủy ban kiểm tra các cấp; kiện toàn và bảo đảm chất lượng, đủ số lượng để Ủy ban kiểm tra các cấp đủ sức giữ gìn sự trong sạch cua Đảng. Mặt khác, Ủy ban kiểm tra các cấp cần phối hợp chặt chẽ với các tổ chức đảng, cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc phát hiện và xử lý tham nhũng.
- Cấp ủy tại các cơ quan Nhà nước cần tập trung chỉ đạo thanh tra, kiểm tra, kiểm toán vào những nơi có vấn đề phức tạp, dư luận quan tâm, các lĩnh vực dễ nảy sinh tiêu cực, tham nhũng; xử lý, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng vòi vĩnh, nhũng nhiễu, "gợi ý", "lót tay", gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp trong giải quyết công việc. Các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử cần đẩy nhanh tiến độ xác minh, điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng, kinh tế; kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, không có vùng cấm, không có đặc quyền, không có ngoại lệ.
- Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Thường xuyên tăng cường tổng kết rút kinh nghiệm, dự báo tình hình tham nhũng, cập nhật trong nước, quốc tế, qua đó đề xuất về chủ trương, giải pháp, phương thức đấu tranh thích hợp. Tổ chức những hội thảo trao đổi kinh nghiệm, cử cán bộ nghiên cứu học tập kinh nghiệm PCTN của các nước có kinh nghiệm tốt trong PCTN.
- Coi trọng thực hiện công tác phối hợp với các ngành liên quan, giữa Ủy ban kiểm tra cấp trên với Ủy ban kiểm tra cấp dưới, thực hiện đúng phương pháp xây dựng Đảng, phương pháp kiểm tra đảng, phối hợp cả thông tin, nhân sự để thống nhất nhận định tính chất, mức độ vụ việc, phương pháp, hình thức tùy vụ việc mà có đơn vị chủ trì. Những vụ việc phức tạp, liên quan đến cán bộ chủ chốt đồng cấp, hoặc có biểu hiện bao che, cản trở của cán bộ có chức quyền thì Ủy ban kiểm tra cùng cấp rất khó thực hiện nhiệm vụ, vì vậy Ủy ban kiểm tra cấp trên cần lắng nghe, chỉ đạo kịp thời, thậm chí kiểm tra cách cấp.
Có thể khẳng định, trong thời gian qua, sự lãnh đạo của Đảng ngày càng được đổi mới, qua đó vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy tốt hơn tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan Nhà nước trong thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát việc đấu tranh PCTN./.
TS. Tạ Thu Thủy
Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra
Chú thích:
(1) Trích phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống tham nhũng năm 2018.
(2) Báo cáo số 113-BC/UBKTTW ngày 18/4/2018 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương.