Theo kế hoạch sử dụng đất từ năm 2015 đến năm 2021, UBND xã Giao Thanh đã tổ chức 06 đợt đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất cho nhân dân làm nhà ở; tổng số lô đất đưa vào kế hoạch đấu giá là 90 lô, với diện tích 8.900 m2. Kết quả trúng đấu giá là 87 lô đất với diện tích 8.575 m2 đất. Đến nay, 86 lô đất đã được hoàn thành nghĩa vụ tài chính với số tiền trên 48 tỷ đồng; 01 trường hợp không thực hiện nghĩa vụ tài chính đã được UBND tỉnh hủy bỏ kết quả đấu giá; 86/86 lô đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSD).
Việc đấu giá đất cơ bản theo đúng quy định về trình tự, thủ tục; vị trí đất đấu giá phù hợp quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; đã được phê duyệt mặt bằng khu đất đấu giá và giá khởi điểm, tổ chức thực hiện đấu giá theo đúng quy chế. Tuy nhiên vẫn còn những khuyết điểm, tồn tại trong nhiều khâu như: công tác lưu giữ hồ sơ; trình tự, thủ tục tổ chức thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất; cấp GCNQSD đất và giao đất; việc sử dụng nguồn tiền sử dụng đất theo kế hoạch giao đất hàng năm…
    |
 |
Trụ sở UBND xã Giao Thanh, huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định. Ảnh minh hoạ |
Chi nguồn thu từ đấu giá quyền sử dụng đất chưa đảm bảo quy định
Theo Thông báo Kết luận Thanh tra, hồ sơ đấu giá quyền sử dụng đất cho nhân dân làm nhà ở tại xã Giao Thanh chưa được lưu trữ đầy đủ tại UBND xã, Phòng Tài nguyên và Môi trường và Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Giao Thủy theo quy định tại Thông tư 46/2016/TT-BTNMT ngày 27/12/2016 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định thời hạn bảo quản hồ sơ, tài liệu chuyên ngành tài nguyên môi trường; đặc biệt là tại Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Giao Thủy không lưu hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc cấp GCNQSD đất, số seri và bản sao GCNQSD đất của các hộ trúng đấu giá quyền sử dụng đất theo Kế hoạch sử dụng đất năm 2016 là thực hiện không đúng theo quy định tại Điều 22 của Thông tư số 23/2014/TT-BTNMT ngày 15/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về việc sao, quét Giấy chứng nhận để lưu.
Thời gian cấp GCNQSD đất và giao đất tại thực địa cho các hộ trúng đấu giá là quá chậm so với thời gian quy định tại Điều 61 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ (sau này là khoản 40 Điều 2 của Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017) và Điều 14 của Thông tư liên tịch số 14/2015/TTLT-BTNMT-BTP; đặc biệt là đợt đấu giá năm 2015, sau 3 năm mới tiến hành cấp GCNQSD đất và bàn giao đất tại thực địa cho người trúng đấu giá. Biên bản bàn giao đất trên thực địa của đợt đấu giá năm 2019 không ghi số, ngày, tháng, năm của quyết định giao đất; không ghi ngày mà chỉ ghi tháng 3/2020 và tháng 4/2020. Việc tổ chức hoàn thiện hồ sơ để cấp GCNQSD đất nông nghiệp sau dồn điền đổi thửa cho hộ gia đình, cá nhân tại xã Giao Thanh cũng rất chậm.
Bên cạnh đó, từ năm 2015 đến hết tháng 12/2021, UBND xã đã chi nguồn thu từ đấu giá quyền sử dụng đất, xử lý các trường hợp sử dụng đất không hợp pháp và chuyển mục đích sử dụng đất cho công tác quản lý đất đai là hơn 200 triệu đồng là chưa đảm bảo theo quy định.
UBND xã Giao Thanh đã lập biên bản vi phạm hành chính đối với 03 trường hợp vi phạm nhưng không ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính và quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả; như vậy là thực hiệnkhông đúng theo quy định tại Điều 66 của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Trên địa bàn xã Giao Thanh có 11 vị trí chuyển mục đích, xây dựng công trình giai đoạn từ ngày 01/7/2004 đến tháng 12/2016 để phục vụ cho mục đích nông thôn mới, song chưa hoàn thiện thủ tục về đất đai theo quy định, bao gồm: 01 Khu xử lý rác thải và 10 Nhà văn hoá, hiện Khu xử lý rác thải và 05 Nhà văn hoá đã có trong quy hoạch sử dụng đất. UBND xã Giao Thanh chưa tập trung rà soát, tổng hợp báo cáo UBND huyện, Sở Tài nguyên và Môi trường để trình UBND tỉnh xem xét, xử lý theo chỉ đạo tại Văn bản số 375/UBND-VP3 ngày 25/5/2018 của UBND tỉnh yêu cầu UBND các huyện, thành phố rà soát, xây dựng báo cáo đối với các dự án có sử dụng đất để sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp, thương mại dịch vụ, dự án đầu tư công trên địa bàn quản lý từ ngày 01/7/2004 đến nay.
Mặt khác, trong công tác quản lý sử dụng quỹ đất công ích, UBND xã Giao Thanh cho 09 hộ gia đình, cá nhân thuê 3.187 m2 đất để sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp là vi phạm quy định tại Điều 59 của Luật Đất đai 2013 và điểm b khoản 3 Điều 97 của Nghị định số 43/2014/NĐ- CP. Tuy nhiên, sau khi phát hiện việc ký hợp đồng của UBND xã không đúng quy định; ngày 31/12/2021, UBND xã Giao Thanh đã cùng các hộ ký thanh lý hợp đồng, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tuyên truyền vận động, đôn đốc các hộ tự tháo dỡ công trình và trả lại mặt bằng cho UBND xã quản lý.
Trách nhiệm chính thuộc về Chủ tịch UBND xã Giao Thanh
Có thể thấy, để xảy ra những tồn tại, vi phạm, khuyết điểm trong việc quản lý đất đai
tại xã Giao Thanh trách nhiệm chính thuộc về Chủ tịch UBND xã, Phó Chủ tịch UBND xã phụ trách lĩnh vực đất đai, cán bộ địa chính xã các thời kỳ có xảy ra tồn tại, vi phạm và các cá nhân có liên quan trực tiếp đến các vi phạm. Cùng với đó, Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm liên quan do chưa thường xuyên kiểm tra việc thực hiện quản lý, sử dụng đất công ích trên địa bàn xã Giao Thanh; chưa đôn đốc UBND xã Giao Thanh báo cáo đầy đủ các công trình chưa hoàn thiện thủ tục về đất đai để trình UBND tỉnh xem xét, xử lý. Về công tác lưu trữ hồ sơ, tổ chức đấu giá, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trách nhiệm thuộc về các phòng chuyên môn của huyện, Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Giao Thủy do đã không tham mưu, tổ chức thực hiện theo quy định.
Từ những kết luận trên, Sở TN&MT tỉnh Nam Định yêu cầu UBND xã Giao Thanh khẩn trương kiện toàn các hồ sơ, tài liệu còn thiếu; thực hiện lưu trữ, bảo quản hồ sơ, tài liệu chuyên ngành tài nguyên môi trường đầy đủ theo quy định. Tuyệt đối không để xảy ra tình trạng Hồ sơ đấu giá tồn tại nhiều phiên bản tài liệu nhưng không đồng nhất về nội dung. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, kế hoạch giao đất cho nhân dân làm nhà ở để tăng thu ngân sách nhưng cần bám sát nhu cầu thực tế đất ở của nhân dân để đưa vào kế hoạch sử dụng đất hàng năm.
Phối hợp với Phòng Tài nguyên và Môi trường thực hiện bàn giao đất thực địa và cấp GCNQSD đất và cho người trúng đấu giá đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính, đảm bảo thời gian, trình tự, thủ tục quy định tại khoản 40 Điều 2 của Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ. Phối hợp với Phòng Tài nguyên và Môi trường thực hiện bàn giao đất thực địa và cấp GCNQSD đất và cho người trúng đấu giá đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính, đảm bảo thời gian, trình tự, thủ tục quy định tại khoản 40 Điều 2 của Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ.
Đối với 11 trường hợp thuộc đối tượng cấp GCNQSD đất ở lần đầu nhưng chưa đủ điều kiện được cấp thì tiếp tục đôn đốc các hộ hoàn thiện hồ sơ, thủ tục để lập phương án xử lý trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt để cấp GCNQSD đất theo quy định. Khẩn trương hoàn thiện hồ sơ, phương án dồn điền đổi thửa và tài liệu kèm theo để trình UBND huyện ký cấp GCNQSD đất để bàn giao cho hộ gia đình, cá nhân theo quy định; trong Quý I năm 2023 phấn đấu trao 30% GCNQSDĐ cho các hộ sử dụng đất nông nghiệp, số còn lại bàn giao xong trong năm 2023.
Ngoài ra, tiếp tục kiểm tra, rà soát các trường hợp sử dụng đất không hợp pháp, qua đó thống kê đầy đủ và chính xác để lập phương án xử lý cấp GCNQSD đất cho các trường hợp sử dụng đất không hợp pháp trên địa bàn xã. Lập phương án xử lý đối với 03 trường hợp vi phạm phát sinh sau ngày 17/7/2012 theo đúng quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và về đất đai.
Rà soát, quản lý chặt chẽ diện tích đất công ích đã được UBND xã ký hợp đồng cho thuê theo đúng hồ sơ địa chính; tiến hành thanh lý những hợp đồng thuê đất công ích đã hết thời hạn; không để xảy ra tình trạng lấn, chiếm, chuyển mục đích sử dụng đất và xây dựng công trình trên đất trái quy định. Quản lý chặt chẽ 3.187 m2 đất đã nhận bàn giao lại từ các hộ; đảm bảo việc sử dụng, giao đất, cho thuê đất theo đúng quy hoạch, kế hoạch và thẩm quyền.
Đồng thời, Sở TN&MT tỉnh đề nghị UBND huyện Giao Thuỷ, UBND xã Giao Thanh Tổ chức kiểm điểm làm rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân để có hình thức xử lý phù hợp quy định của pháp luật về khuyết điểm, tồn tại, vi phạm đã nêu trong Kết luận thanh tra./.