Để nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát tài sản, thu nhập

Thứ hai, 25/12/2023 08:00
(ThanhtraVietNam) - Luật Phòng, chống tham nhũng (PCTN) năm 2018 và Nghị định số 130/2020/NĐ-CP tuy đã giải quyết được nhiều vấn đề vướng mắc, tồn tại trong quy định cũ, nhưng đồng thời cũng phát sinh một số vấn đề mới khi áp dụng trong thực tiễn. Tại Hội nghị về công tác kiểm soát tài sản, thu nhập (TSTN) được Thanh tra Chính phủ tổ chức ngày 20/12/2023, đã có nhiều ý kiến đóng góp, trong đó, đáng chú ý là chia sẻ kinh nghiệm của Thanh tra tỉnh Tây Ninh nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát TSTN trong thời gian tới.

Kinh nghiệm về công tác kiểm soát TSTN tại địa phương

Mặc dù Luật PCTN năm 2018 đã giao thẩm quyền kiểm soát TSTN cho Thanh tra tỉnh, nhưng với vai trò là cơ quan tham mưu quản lý nhà nước về PCTN nói chung, về kiểm soát TSTN nói riêng, Thanh tra tỉnh Tây Ninh đã chủ động tham mưu UBND tỉnh triển khai kê khai TSTN trong phạm vi chính quyền địa phương để có chỉ đạo thống nhất thực hiện. Mặt khác, văn bản triển khai của UBND tỉnh không chỉ mang tính chất chỉ đạo mà còn lồng ghép hướng dẫn thực hiện và chấn chỉnh trách nhiệm kê khai đầy đủ, trung thực TSTN của từng cá nhân có nghĩa vụ kê khai.

Hỗ trợ cho quá trình chỉ đạo thực hiện công tác kê khai TSTN, Thanh tra tỉnh đã chủ động nghiên cứu, thu thập những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện để xây dựng bộ hướng dẫn trực tuyến về kê khai TSTN. Bộ hướng dẫn được đăng tải công khai trên Trang TTĐT Thanh tra tỉnh và thông báo rộng rãi trên nền tảng thông tin tuyên truyền Zalo đến toàn tỉnh biết truy cập, khai thác; đồng thời, tiếp tục tiếp nhận những khó khăn, vướng mắc mới theo đường dẫn hỏi - đáp đính kèm để cập nhật, hoàn thiện bộ hướng dẫn.

leftcenterrightdel
 Toàn cảnh Hội nghị về công tác kiểm soát TSTN được Thanh tra Chính phủ tổ chức ngày 20/12/2023. Ảnh: K. Dung

Về thời kỳ kê khai, vận dụng quy định tại khoản 2, 3 Điều 36 Luật PCTN năm 2018 về nguyên tắc “hoàn thành bản kê khai trước ngày 31 tháng 12 hằng năm”, Thanh tra tỉnh Tây Ninh đã chủ động tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo chốt số liệu kê khai vào ngày 01/11 hằng năm. Mốc số liệu này vừa đảm bảo quy định nêu trên, vừa tạo sự thống nhất trong toàn hệ thống về triển khai, thực hiện; trong quá trình xác minh TSTN, việc có mốc chốt số liệu kê khai hằng năm sẽ giúp cho việc thu thập thông tin kê khai TSTN từ các tổ chức liên quan như ngân hàng, tài nguyên môi trường, thuế... sẽ đồng bộ và dễ dàng hơn, thay vì thông tin tài sản của mỗi người là một mốc khác nhau.

Về việc tiếp nhận bàn giao các bản kê khai, Thanh tra tỉnh nhận thấy số lượng người kê khai trong từng kỳ là rất lớn, việc bàn giao trực tiếp bản kê khai sẽ rất khó quản lý, truy lục phục vụ xác minh, tổng hợp khi cần thiết. Do đó, vận dụng tinh thần định hướng xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát TSTN cũng như kinh nghiệm tập huấn của Pháp, Thanh tra tỉnh đã xin chủ trương UBND tỉnh xây dựng hệ thống tiếp nhận các bản kê khai trực tuyến và tổ chức hướng dẫn các ngành, địa phương thực hiện.

Cụ thể, hệ thống được xây dựng trên hạ tầng của Tỉnh, hệ thống tài khoản đăng nhập được cấp theo 03 cấp độ: Cấp độ quản trị dành cho công chức CNTT sử dụng để thay đổi, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện và bảo mật kết cấu hệ thống; cấp độ kiểm soát dành cho lãnh đạo Thanh tra tỉnh và quản lý Phòng Nghiệp vụ 3 sử dụng để truy cập thông tin tất cả các bản kê khai TSTN đã được bàn giao; cấp độ thực hiện dành cho các ngành, địa phương sử dụng để bàn giao các bản kê khai và truy cập thông tin trong phạm vi ngành, địa phương mình quản lý (nhưng không có quyền thay đổi, xóa các bản kê khai đã bàn giao, đây là nội dung vận dụng theo tài liệu tập huấn kinh nghiệm của Pháp về kiểm soát TSTN do Thanh tra Chính phủ cung cấp).

Các bản kê khai TSTN được bàn giao về hệ thống là bản số hóa từ bản kê khai giấy, có tích hợp chữ ký số đơn vị để xác định tính hợp pháp với định dạng file là PDF, có giới hạn dung lượng từng bản kê khai theo định hướng xây dựng cơ sở dữ liệu của Thanh tra Chính phủ. Lý do hệ thống chưa xây dựng tính năng kê khai trực tuyến để thay thế bản giấy là do chưa có chủ trương về hình thức kê khai sắp tới của cơ sở dữ liệu quốc gia, dễ bất cập khi đồng bộ sau này; thời gian triển khai, thực hiện quá ngắn nên chưa thể lập trình bổ sung tính năng; một số bản kê khai của đối tượng thuộc chi ủy/đảng ủy cơ quan còn phải gửi về Đảng ủy Khối, Huyện/Thị/Thành ủy theo quy định của Đảng nên cần phải có bản giấy.

Hệ thống này đã được đưa vào vận hành từ năm 2021 sau khi Thanh tra Chính phủ có văn bản chỉ đạo tổ chức thực hiện kê khai TSTN theo quy định Luật PCTN năm 2018 và Nghị định số 130/2020/NĐ-CP của Chính phủ, đến nay đã cơ bản đi vào ổn định; góp phần tiết kiệm chi phí in ấn tài liệu, vận chuyển bàn giao văn bản giữa các cấp và thời gian lưu trữ, tổng hợp, truy lục hồ sơ khi cần thiết.

Về xác minh TSTN, Thanh tra tỉnh Tây Ninh đã xây dựng kế hoạch xác minh, trong đó xác định trọng tâm một số loại TSTN có giá trị cần lưu ý, từ đó yêu cầu một số tổ chức liên quan cung cấp như: Đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, chi nhánh tỉnh Tây Ninh có văn bản yêu cầu các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh cung cấp thông tin về tiền gửi, sổ tiết kiệm; yêu cầu Cục Thuế Tỉnh rà soát thông tin các khoản đóng thuế để truy lục lại thông tin về TSTN; yêu cầu Công an tỉnh cung cấp thông tin về sở hữu phương tiện; yêu cầu Sở TNMT cung cấp thông tin về quyền sử dụng đất cũng như các hợp đồng sang nhượng. Các thông tin trên được truy lục theo thông tin CMND và CCCD của người được xác minh và vợ/chồng, con chưa thành niên. Ngoài ra, với lợi thế có nhân sự thuộc Ban Chỉ đạo 35-16, Thanh tra tỉnh cũng tranh thủ mạng lưới dư luận xã hội để nắm thêm thông tin về TSTN để xác minh, làm rõ.

Về quá trình triển khai bốc thăm lựa chọn người xác minh, ngoài việc đã mời đại diện Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Tây Ninh và Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy tham dự, Thanh tra tỉnh còn đề nghị thành phần tham dự trực tiếp kiểm tra danh sách người kê khai đối chiếu với thông tin trên các phiếu thăm để khẳng định số lượng thăm đã đầy đủ, trùng khớp; đồng thời, đề nghị hỗ trợ lựa chọn ngẫu nhiên để tăng thêm tính khách quan.

Trong quá trình triển khai công bố quyết định xác minh, Thanh tra tỉnh Tây Ninh đã tự xây dựng mẫu báo cáo kết quả chấp hành quy định về kê khai TSTN để yêu cầu những người được xác minh báo cáo về những nội dung đã kê khai; đồng thời, tạo cơ hội cho phép rà soát, bổ sung thêm những TSTN còn thiếu sót vào báo cáo này để về sau có cơ sở đánh giá về tính trung thực. Về lý do vì sao Thanh tra tỉnh Tây Ninh không sử dụng cách gọi “báo cáo giải trình” như trong Luật PCTN quy định do về bản chất các trường hợp được xác minh ngẫu nhiên này là nhiệm vụ thường xuyên, không phải xác minh do có đơn thư tố cáo, phản ánh nên việc yêu cầu giải trình là chưa hợp lý, dễ gây tâm lý tiêu cực cho người được xác minh.

Khó khăn, vướng mắc và kiến nghị, đề xuất

Thứ nhất, khái niệm “không trung thực” trong kê khai, giải trình nguồn gốc TSTN trong Điều 51 Luật PCTN năm 2018 chưa được quy định cụ thể. Thực tiễn khái niệm này còn nhiều cách hiểu khác nhau về tính chất khách quan, chủ quan. Do đó, việc đảm bảo xử lý trách nhiệm qua xác minh TSTN theo khoản 3 Điều 51 Luật PCTN chưa có sự thống nhất.

Qua xác minh TSTN, những người được xác minh và cơ quan quản lý người được xác minh đều cho rằng việc kê khai không đầy đủ TSTN (đa số là của vợ/chồng và con chưa thành niên) do nhận thức hạn chế, thiếu nghiên cứu pháp luật là yếu tố khách quan nên chỉ cần kiểm điểm, không xử lý kỷ luật theo khoản 3 Điều 51 Luật PCTN. Tuy nhiên, về bản chất những nội dung nêu trên đều đã được quy định trong Luật PCTN năm 2005, do đó việc kê khai không đầy đủ TSTN của vợ/chồng, con chưa thành niên đã phản ánh thái độ thiếu trách nhiệm, nhận thức chưa đầy đủ của những người có vi phạm.

Ngoài ra, quy định xử lý vi phạm về kê khai tài sản trong Luật PCTN chỉ xác định duy nhất một hành vi vi phạm, thu nhập là “không trung thực” với mức kỷ luật thấp nhất là Cảnh cáo; trong khi đó, Quy định số 69-QĐ/TW ngày 06/7/2022 của Ban Chấp hành Trung ương lại quy định 02 hành vi vi phạm trong kê khai TSTN là “không trung thực” (điểm e khoản 2 Điều 39) và “kê khai không đầy đủ” (điểm b khoản 1 Điều 39) với mức kỷ luật tương ứng là Cảnh cáo và Khiển trách. Từ đó dẫn đến việc triển khai, thực hiện không đồng bộ giữa Thanh tra tỉnh với Ủy ban Kiểm tra các cấp.

Từ đó, Thanh tra tỉnh kiến nghị Thanh tra Chính phủ cần quy định rõ khái niệm “không trung thực” là hành vi không kê khai đầy đủ TSTN theo quy định mà không có lý do chính đáng, hợp pháp. Theo đó, giải quyết được trường hợp người được xác minh trình bày do nhận thức hạn chế, thiếu nghiên cứu pháp luật; bổ sung trường hợp “kê khai không đầy đủ” là hành vi không kê khai đầy đủ TSTN theo quy định nhưng đã chủ động giải trình, bổ sung trước khi bị phát hiện để đồng bộ với quy định xử lý kỷ luật đảng viên.

Bên cạnh đó, Thanh tra tỉnh Tây Ninh đề xuất Thanh tra Chính phủ kiến nghị Chính phủ xin ý kiến của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, tiêu cực được tiếp cận thông tin kinh nghiệm về nhận định, xử lý đối với một số kết luận xác minh vi phạm không trung thực điển hình nhất hiện nay mà dư luận đang quan tâm để giới thiệu cho các cơ quan kiểm soát TSTN nghiên cứu, áp dụng.

Thứ hai, về quy định kê khai bổ sung có 02 vấn đề vướng mắc:

Một là, đối với những cá nhân không thuộc diện kê khai hằng năm, sau khi hoàn thành kê khai lần đầu thì có thể nhiều năm sau đó (giả sử là 05 năm) mới có biến động từ 300 triệu đồng trở lên phải thực hiện kê khai bổ sung; như vậy việc thống kê tổng thu nhập giữa hai lần kê khai trong bản kê khai bổ sung là số liệu thu nhập của 05 năm, trên thực tế rất khó để có thể thực hiện. Qua tập huấn kê khai TSTN, Trường Cán bộ Thanh tra đã hướng dẫn việc kê khai đối với những trường hợp này chỉ kê khai tổng thu nhập trong năm. Tuy hướng dẫn này là phù hợp trên thực tiễn nhưng chưa đồng bộ với quy định hiện hành, cũng như không có giá trị pháp lý để áp dụng.

Đối với những trường hợp không thuộc diện hằng năm, trong năm có phát sinh tài sản tăng thêm có nguồn gốc tặng cho, thừa kế nhưng không thể xác định giá trị như đất đai thì việc xác định biến động 300 triệu đồng hay không vẫn chưa thống nhất về nhận thức. Theo đó, Thanh tra tỉnh Tây Ninh đã khuyến nghị trường hợp không biết chính xác giá trị tài sản thì vận dụng thông tin sẵn có được cơ quan thẩm quyền công nhận để làm cơ sở tạm xác định giá trị, ví dụ như trường hợp nhận tặng cho đất thì lấy giá trong bảng giá đất có hiệu lực tại thời điểm nhận tặng cho, thừa kế để tính giá trị thửa đất, nếu trên 300 triệu đồng thì thực hiện kê khai bổ sung theo quy định. Kiến nghị Thanh tra Chính phủ xem xét có hướng dẫn chi tiết với những trường hợp này.

Đối với những đối tượng là viên chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý (không phải là đối tượng có nghĩa vụ kê khai), khi được tiến hành quy trình bổ nhiệm thì phải thực hiện kê khai phục vụ công tác cán bộ. Tuy nhiên, do không phải là đối tượng kê khai nên không thể kê khai biến động theo quy định trong bản kê khai phục vụ công tác cán bộ. Mặt khác, sau khi được bổ nhiệm, họ phải tiếp tục kê khai tài sản lần đầu. Điều này dẫn đến thủ tục rườm rà, phức tạp cho đối tượng này, cần được xem xét điều chỉnh giảm bớt 01 trong 02 khâu để phù hợp với thực tiễn.

Nội dung kê khai TSTN cũng tồn tại một số bất cập. Cụ thể:

Khái niệm “Công trình xây dựng khác” tại tiểu mục 2.2 mục 2 Phần II Bản kê khai với khái niệm “Vật kiến trúc khác gắn liền với đất” tại tiểu mục 3.3 mục 3 Phần II Bản kê khai hoàn toàn không được chú thích cụ thể về nội hàm để thể hiện sự khác nhau. Mặt khác, các khái niệm trên không đồng bộ với quy định trong Luật Xây dựng (sửa đổi) năm 2020 và Luật Đất đai năm 2013 nên không có cơ sở vận dụng thực hiện. Theo đó, quy định cần bổ sung định nghĩa “Vật kiến trúc khác gắn liền với đất” là những tài sản mà không được xem là công trình xây dựng theo quy định pháp luật về xây dựng.

Trường hợp người kê khai có vợ/chồng kinh doanh riêng (nhất là trường hợp có doanh nghiệp riêng) thì việc kê khai thu nhập phát sinh khó khăn trong tổng hợp. Cụ thể, quy định về tổng thu nhập xác định các trường hợp này phải kê khai lợi nhuận từ hoạt động đầu tư, kinh doanh, tuy nhiên thời kỳ tính doanh thu là kết thúc năm kinh doanh và có kết quả lợi nhuận sau thuế vào khoảng tháng 02, 03 của năm tiếp theo nên ngay trong năm thực hiện bản kê khai thì không thể kê khai lợi nhuận chính xác trong năm đó là bao nhiêu. Do đó, Thanh tra tỉnh Tây Ninh qua xác minh TSTN đã có hướng dẫn tạm thời là thực hiện kê khai lợi nhuận thực tế trong năm của doanh nghiệp do vợ/chồng người kê khai là chủ doanh nghiệp sẽ thể hiện trong kỳ kê khai của năm tiếp theo (ví dụ lợi nhuận năm 2022 sẽ kê khai trong bản kê khai năm 2023). Trên tinh thần đo, Thanh tra tỉnh Tây Ninh đã kiến nghị Thanh tra Chính phủ xem xét, công nhận hoặc có hướng dẫn chi tiết với những trường hợp này.

Theo cơ chế hiện nay, các cơ quan kiểm soát TSTN có trách nhiệm báo cáo kết quả kiểm soát những đối tượng thuộc phạm vi kiểm soát của mình về Thanh tra Chính phủ. Tuy nhiên, hiện vẫn tồn tại song song một số chế độ báo cáo yêu cầu chủ thể báo cáo là UBND cấp tỉnh (Thanh tra tỉnh là cơ quan tham mưu), điển hình như chế độ báo cáo Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 03/01/2014 của Ban Chấp hành Trung ương, trong khi UBND tỉnh không phải là cơ quan kiểm soát tài sản thu nhập.

Thực trạng này dẫn đến vướng mắc trong việc xác định phạm vi báo cáo kết quả kiểm soát TSTN của UBND tỉnh gồm những đối tượng nào, do hiện nay đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thuộc chính quyền địa phương đang do 02 cơ quan cùng kiểm soát: (1) Thanh tra tỉnh kiểm soát những cá nhân không thuộc diện Ban Thường vụ cấp ủy các cấp quản lý; (2) Ủy ban Kiểm tra các cấp kiểm soát những cá nhân thuộc diện Ban Thường vụ cấp ủy các cấp quản lý. Do đó, chế độ báo cáo kiểm soát TSTN nói riêng, chế độ báo cáo công tác PCTN, tiêu cực nói chung nên có sự thống nhất giữa Đảng và Nhà nước, một báo cáo phục vụ cho nhiều công việc.

Ngoài ra, thực tiễn cho thấy, việc thu thập thông tin các tổ chức phục vụ xác minh TSTN là khâu rất khó khăn. Điển hình như việc thu thập thông tin đất đai hoặc thông tin thu nhập, tiền gửi chỉ có thể thực hiện trong phạm vi của tỉnh. Trong khi đó, đối tượng xác minh vẫn có thể sở hữu tài sản ở ngoài tỉnh. Do đó, việc gửi văn bản cho các tổ chức tại tất cả địa phương còn lại là cực kỳ khó khăn do khó kiểm soát được trách nhiệm phản hồi cũng như thời gian xác minh rất ngắn. Vì vậy, để công tác này sớm đi vào thực chất, hiệu quả cần sớm hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu liên quan đến các thông tin TSTN để các cơ quan kiểm soát có thể khai thác ngay mà không cần yêu cầu cung cấp.

Qua nắm bắt phản ánh, kiến nghị của các cơ quan chính trị - xã hội tại địa phương, hiện nay các cơ quan Trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội (cơ quan kiểm soát TSTN của các tổ chức chính trị - xã hội theo khoản 8 Điều 30 Luật PCTN - Khoản 8 Điều 30 Luật PCTN: “Cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội kiểm soát tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai công tác trong hệ thống cơ quan, tổ chức đó”) chưa có chỉ đạo kiểm soát TSTN trong tổ chức mình. Do đó, nhiều bản kê khai của công chức trong các tổ chức này (trừ những bản kê khai của đối tượng thuộc diện Ban Thường vụ các cấp quản lý) không được bàn giao về cơ quan Trung ương là chưa đúng quy định tại khoản 8 Điều 30 Luật PCTN. Do đó, kiến nghị Thanh tra Chính phủ quan tâm, kiến nghị Chính phủ có ý kiến đề nghị Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trực thuộc sớm triển khai, chỉ đạo kiểm soát chặt chẽ các bản kê khai TSTN thuộc phạm vi kiểm soát của mình, gửi về Thanh tra Chính phủ định kỳ theo chỉ đạo tại Quyết định số 56-QĐ/TW ngày 08/02/2022 của Bộ Chính trị về việc ban hành Quy chế phối hợp giữa các cơ quan kiểm soát TSTN.

Trong thời gian gần đây, quá trình xác minh TSTN của Thanh tra tỉnh đã phát sinh 01 đơn kiến nghị của người được xác minh đã nghỉ việc. Theo đó, cá nhân này cho rằng bản thân đã nghỉ việc nên không còn chịu trách nhiệm trong thời gian là công chức. Mặc dù Thanh tra tỉnh đã có văn bản trả lời trên cơ sở xác định xác minh TSTN là xác minh đối với bản kê khai TSTN theo khoản 5 Điều 3 Nghị định số 130/2020/NĐ-CP ngày 30/10/2020 của Chính phủ và quy định “Mọi hành vi vi phạm trong thời gian công tác của cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu đều bị xử lý theo quy định của pháp luật” theo điểm a khoản 5 Điều 84 Luật Cán bộ, công chức năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2020; tuy nhiên, một trong những nguyên nhân gây hiểu nhầm là do cách ghi thời kỳ xác minh trong văn bản chỉ đạo xác minh. Cụ thể văn bản của Thanh tra Chính phủ ghi nhận “xác minh TSTN năm 2023” nhưng thực hiện với bản kê khai năm 2022 là dễ gây hiểu nhầm. Do đó cần thống nhất ghi nhận năm xác minh theo thời kỳ xác minh (tương tự như cách ghi đánh giá công tác PCTN hằng năm theo Bộ Chỉ số của TTCP).

Có thể nói, thực tiễn cho thấy những khó khăn, vướng mắc nói trên không chỉ của riêng Tây Ninh mà là của nhiều tỉnh/thành khác trên cả nước. Những kinh nghiệm của địa phương là bài học quý đối với công tác quản lý nhà nước về kiểm soát TS, TN. Trên cơ sở ghi nhận những kinh nghiệm và những kiến nghị, đề xuất của địa phương, tham vấn ý kiến các chuyên gia, Thanh tra Chính phủ sẽ xây dựng tổng hợp các kiến nghị, đề xuất điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi cơ chế, văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn thi hành, góp phần nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát TSTN trong thời gian tới./.

K. Dung (tổng hợp)
Ý kiến bình luận
Họ và tên *
Email *
Nội dung bình luận *
Xác thực *

Bản quyền thuộc Tạp chí Thanh tra