Chùa Côn Sơn - một trong những di tích lịch sử được xếp hạng mới trùng tu, tôn tạo và có những hạng mục được phục dựng lại. Ảnh: Trần Vương
Giữ gìn, lưu truyền, bổ sung, cải thiện
Theo Viện Bảo tồn di tích, nước ta có 3.415 di tích đã được xếp hạng, có rất nhiều ngôi đền, ngôi chùa vừa là di sản văn hóa vật thể, vừa là thiết chế phục vụ các hoạt động tín ngưỡng tâm linh. Hoạt động bảo tồn di tích đối với loại hình di tích này vừa phải giữ gìn, lưu truyền những yếu tố cũ, nguyên gốc cùng với những giá trị lịch sử, văn hóa đã qua thời gian nhiều năm tháng, vừa phải bổ sung, cải thiện các điều kiện cần thiết để nó tiếp tục sử dụng, phát huy một cách tốt nhất trong đời sống.
Các di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc nghệ thuật ở Việt Nam, do tác động của điều kiện tự nhiên, môi trường, thiên tai, xã hội và các cuộc chiến tranh nên phần lớn đến với thế hệ ngày nay không còn được nguyên vẹn. Do vậy, hầu hết những di tích này đều đặt ra những đòi hỏi về cứu chữa, tu bổ, khôi phục từng phần hoặc toàn phần cùng với sự khơi dòng để tồn tại tiếp nối.
TS-KTS Hoàng Đạo Cương - Phó Viện trưởng Viện Bảo tồn di tích - cho biết: Bảo tồn di tích là một hoạt động khoa học nhằm bảo vệ những dấu tích vật chất, những giá trị lịch sử, văn hóa vốn có của di tích trong cuộc sống đương đại và tương lai. Bên cạnh những đòi hỏi nghiêm ngặt về bảo tồn các nhân tố gốc tạo nên giá trị di tích (quy mô cấu trúc mặt bằng, đặc điểm bộ khung gỗ chịu lực, các trang trí hoa văn chạm khắc, các di vật và thành phần thờ tự, vật liệu hay cách thức xây dựng truyền thống…), ở một số di tích còn có những nhu cầu khôi phục, bổ sung các thành phần đã bị mất mát hay còn thiếu khuyết. Đây là một đòi hỏi chính đáng, nhằm mục đích tôn vinh giá trị lịch sử văn hóa, kiến trúc nghệ thuật của di tích, đáp ứng đời sống tín ngưỡng tâm linh đương đại.
“Trên thực tế ở nước ta hiện nay, đã có những hoạt động theo chiều hướng này. Chẳng hạn, khu di tích Lam Kinh ở Thanh Hóa, sau nhiều năm bàn bạc và tính toán, đã được phục dựng lại hầu như hoàn toàn. Đền thờ các vua nhà Trần ở huyện Đông Triều đã được khôi phục, kết hợp với việc giữ lại các thành phần kiến trúc bằng đá và đất nung. Các di tích chùa Côn Sơn và đền Kiếp Bạc ở Hải Dương đã được kiện toàn từng phần trên cơ sở phục hồi một số hạng mục đã mai một… Thực tiễn này đang đặt ra những vấn đề cần phải soi rọi, trao đổi nhằm đi đến thống nhất như kết hợp bảo tồn - khôi phục và phát triển như thế nào cho thỏa đáng. Cần những cơ sở nào cho việc phục hồi những thành phần đã mất?” - ông Cương nói.
Ưu tiên trên hết việc bảo tồn nguyên trạng
Chia sẻ kinh nghiệm trong công tác tu bổ, tôn tạo di tích ở Côn Sơn - Kiếp Bạc (Hải Dương), TS Nguyễn Khắc Minh - Trưởng Ban QLDT Côn Sơn - Kiếp Bạc - cho biết: “Từ thực tế công tác tu bổ, tôn tạo khu di tích, chúng tôi cho rằng chỉ có thể đạt được hiệu quả cao nhất khi tuân thủ các nguyên tắc khoa học. Cần có thái độ trân trọng với các yếu tố nguyên gốc và các bộ phận của di tích được bổ sung sau này nhưng có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học và thẫm mỹ. Trước khi tiến hành tu bổ cần phải triển khai việc nghiên cứu liên ngành để có sự hiểu biết cặn kẽ di tích về các mặt: Giá trị, tình trạng bảo quản cũng như các hoàn cảnh lịch sử và đặc thù văn hóa ở địa phương nơi có di tích được tu bổ.
Bên cạnh đó, các giải pháp tu bổ cần được trao đổi rộng rãi, lấy ý kiến của các nhà nghiên cứu ở các ngành khoa học có liên quan để có thể lựa chọn được giải pháp tối ưu nhất. Chỉ tiến hành tu bổ, phục hồi di tích lịch sử khi có các cơ sở cứ liệu khoa học chính xác (tài liệu viết, bản vẽ đạc họa, ảnh chụp, bản dập…) phần phục hồi phải phù hợp và thống nhất thành một khối thống nhất với nhất nguyên gốc còn lại. Và đặc biệt, quá trình tu bổ phải được triển khai dưới sự giám sát thường xuyên và nghiêm ngặt của tư vấn giám sát và cộng đồng cư dân nơi có di tích.”
Theo GS-TS-KTS Hoàng Đạo Kính, đối với những di tích lịch sử, ưu tiên trên hết việc bảo tồn nguyên trạng, bởi những di tích là chứng nhân lịch sử, chúng bảo lưu những dữ liệu lịch sử, nhiều khi duy nhất. Từ đó ưu tiên các giải pháp và kỹ thuật bảo quản hiện trạng, không tạo nên những sự biến đổi làm nghèo, làm sai và làm giả những gì là gốc. Bên cạnh đó, cần cân nhắc đặc biệt nghiêm túc những công việc can thiệp và cơ thể di tích, dù ở dạng phế tích hoặc di chỉ. Chỉ tu sửa khi việc bảo quản là chưa đủ để duy trì. Chỉ tu sửa nhỏ khi chưa thật sự cần đến tu sửa lớn. Đối với vấn đề khôi phục từng phần hoặc toàn phần, một di tích lịch sử không còn nguyên vẹn, ta nên hiểu cái việc đó không thể làm cho di tích gốc bị suy chuyển.
Các di tích tôn giáo và tín ngưỡng không còn nguyên vẹn, một mặt cần được bảo tồn nghiêm ngặt và trọn vẹn các cấu trúc và các thành tố gốc, những đặc điểm và giá trị của chúng, mặt khác lại phải hiện hữu trong sự kiện toàn về tổng thể để tham gia vào cuộc sống đương đại như những thiết chế tâm linh thực thụ. Do đó, cần phải bảo tồn các di tích không còn nguyên vẹn trong sự khơi dòng cho sự phát triển tiếp nối, kết hợp nhuần nhị bảo tồn và phát triển.
Theo Vương Trần (Báo Lao động)