Bảo đảm an ninh nguồn nước khu vực sông Cửu Long

Thứ năm, 09/03/2023 17:09
(ThanhtraVietNam) - Theo Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long thời kỳ 2021 – 2030 tầm nhìn đến năm 2050, toàn bộ địa giới hành chính của các tỉnh, thành phố thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, gồm: thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Long An, An Giang, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang, với diện tích 39.945 km2 (không tính diện tích các đảo); bao gồm lưu vực sông Cửu Long và lưu vực sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây thuộc địa bàn tỉnh Long An.

Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long thời kỳ 2021 – 2030 tầm nhìn đến năm 2050 được phê duyệt theo Quyết định số 174/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (gọi tắt là Quy hoạch). Mục tiêu tổng quát của Quy hoạch là nhằm bảo đảm an ninh nguồn nước trên lưu vực sông, tích trữ, điều hòa, phân bổ tài nguyên nước một cách công bằng, hợp lý, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn nước ngọt, lợ, mặn gắn với bảo vệ, phát triển bền vững tài nguyên nước nhằm đáp ứng nhu cầu nước cho dân sinh, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường. Đồng thời bảo vệ tài nguyên nước, phòng chống suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước và các tác hại do nước gây ra, có lộ trình phục hồi nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm, đáp ứng yêu cầu quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực sông và thích ứng với biến đổi khí hậu. Từng bước thực hiện mục tiêu chuyển đổi số quốc gia trên cơ sở xây dựng, vận hành hệ thống thông tin, dữ liệu tài nguyên nước, bảo đảm kết nối với hệ thống thông tin tài nguyên môi trường, các ngành có khai thác, sử dụng nước.

Khai thác, sử dụng nước không làm ảnh hưởng đến chức năng nguồn nước

Theo Quy hoạch, các nguồn nước liên tỉnh, liên quốc gia trên lưu vực sông Cửu Long có chức năng sử dụng cho các mục đích cấp nước sinh hoạt, sản xuất công nghiệp, sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, du lịch, kinh doanh dịch vụ, giao thông thủy. Chức năng của các nguồn nước được phân chia trên cơ sở 120 tiểu vùng quận lý tổng hợp tài nguyên nước phù hợp với đặc điểm của vùng sinh thái ngọt, lợ, mặn, đặc điểm sử dụng nước và phát triển kinh tế - xã hội tại 12 vùng quy hoạch. Tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nước không làm ảnh hưởng đến chức năng nguồn nước; xả nước thải vào nguồn nước phải phù hợp chức năng nguồn nước.

Quản lý điều hòa lượng nước có thể khai thác, sử dụng trên toàn lưu vực ứng với tần suất 50% khoảng 128.241 triệu m3, ứng với tần suất 85% khoảng 118.091 triệu m3, trong đó lượng nước có thể khai thác, sử dụng từ ngoài biên giới chảy vào (tại các trạm thủy văn Tân Châu, Châu Đốc) ứng với tần suất 50% khoảng 111.200 triệu m3, ứng với tần suất 85% khoảng 102.200 triệu m3 đáp ứng nhu cầu khai thác, sử dụng nước đến năm 2030 theo Phụ lục III kèm theo Quyết định số 174/QĐ-TTg. Các giải pháp điều hòa phân bổ nguồn nước cho các vùng, các tiểu vùng thực hiện trên cơ sở các quy định tại Quy hoạch này. Trường hợp hạn hán, thiếu nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường quyết định việc điều hòa, phân bổ nguồn nước cho các mục đích sử dụng cho phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nước.

Trường hợp xảy ra thiếu nước nghiêm trọng, dòng chảy đến tại các trạm thủy văn Tân Châu, Châu Đốc thiếu hụt trên 30% so với trung bình nhiều năm trong mùa cạn, xâm nhập mặn sâu vào các sông, rạch, nội đồng (như các năm 2019, 2020), cần thực hiện việc đàm phán với các quốc gia thượng nguồn để yêu cầu gia tăng lượng nước về đồng bằng, chuyển từ phương thức đáp ứng nhu cầu sang chủ động quản lý nhu cầu trên các vùng sinh thái lợ và mặn, kết hợp các giải pháp tích, trữ, tạo nguồn.

Căn cứ hiện trạng nguồn nước, bản tin dự báo về tình hình khí tượng, thủy văn, tài nguyên nước, mức độ hạn hán, thiếu nước, lượng nước tích, trữ hiện có, nguồn nước dự phòng, khả năng khai thác nước dưới, đất, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố chủ động quyết định việc sử dụng nguồn nước hiện có trên địa bàn tỉnh; hạn chế phân bổ nước cho các hoạt động sử dụng nước chưa cấp thiết, các đối tượng sử dụng nước lớn, hiệu quả sử dụng nước thấp để ưu tiên cho mục đích sinh hoạt, an sinh xã hội, các ngành sản xuất có hiệu quả kinh tế - xã hội cao tại các trung tâm đầu mối và các hành lang phát triển kinh tế theo tỷ lệ phù hợp, đặc biệt tại các vùng thường xuyên khan hiếm nước ngọt thuộc các tỉnh: Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng. Đồng thời, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương có liên quan xây dựng phương án vận hành hệ thống công trình khai thác, sử dụng nước có khả năng điều tiết phù hợp đảm bảo nâng cao hiệu quả sử dụng nước trên toàn lưu vực.

Các công trình điều tiết, khai thác, sử dụng nước, phát triển tài nguyên nước trong Quy hoạch này gồm: các hồ chứa thủy lợi có dung tích từ 0,1 triệu m3 trở lên, các cống điều tiết nước, trạm bơm có lưu lượng từ 0,1 m3/giây trở lên, các công trình khai thác nước mặt khác cho mục đích sinh hoạt, sản xuất phi nông nghiệp và kinh doanh, dịch vụ có lưu lượng từ 100 m3/ngày đêm trở lên, các công trình khai thác nước dưới đất từ 3.000 m3/ ngày đêm trở lên quy định tại Phụ lục VI kèm theo Quyết định số 174/QĐ-TTg; các công trình điều tiết, khai thác, sử dụng nước, phát triển tài nguyên nước khác có quy mô như trên đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt trong các quy hoạch có khai thác sử dụng nước khác hoặc đã xây dựng, vận hành trước ngày Quyết định có hiệu lực thi hành; các hồ, ao, đầm, phá không được san lấp được công bố theo quy định.

leftcenterrightdel
Chợ nổi Cái Răng trên sông Cần Thơ. Ảnh: PV 

Hoàn thiện các quy chuẩn về khai thác, sử dụng, tái sử dụng tài nguyên nước

Để đảm bảo thực hiện Quy hoạch, giải pháp thực hiện là hoàn thiện thể chế, chính sách, các quy chuẩn về khai thác, sử dụng, tái sử dụng tài nguyên nước theo quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và chính sách đặc thù (nếu có) đối với lưu vực sông Cửu Long, nhất là pháp luật, cơ chế, chính sách của ngành nước, tăng cường phân cấp, giảm thủ tục hành chính, minh bạch tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư, quản lý, vận hành kết cấu hạ tầng ngành nước, sản xuất và kinh doanh nước sạch; quản lý, bảo vệ nguồn sinh thủy, bảo vệ, phát triển rừng, nâng cao nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng; cơ chế tài chính, thu hút, huy động các nguồn lực tài chính trong khai thác, sử dụng, bảo vệ, phòng, chống, khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra; cơ chế về sử dụng nguồn nước xuyên biên giới; sử dụng nước tiết kiệm, nâng cao hiệu quả sử dụng nước, bảo vệ môi trường nước; rà soát các tiêu chuẩn, quy chuẩn về chất lượng nước, tái sử dụng nước, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với công trình xây dựng, hạ tầng xây dựng bảo đảm việc tích trữ nước mưa, nâng cao năng lực tiêu thoát nước, đặc biệt là các đô thị; rà soát các quy hoạch có liên quan đến khai thác, sử dụng tài nguyên nước, bảo đảm thống nhất, đồng bộ giữa các quy hoạch; cơ chế phối hợp giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, địa phương khắc phục các chồng chéo, mâu thuẫn, bảo đảm thống nhất trong điều phối, góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước lưu vực sông Cửu Long. Thực hiện lộ trình giá, dịch vụ thủy lợi, chi trả dịch vụ rừng, chuyển đổi cơ cấu sản xuất bền vững tại các vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng của hạn hán, thiếu nước ngọt.

Bên cạnh đó, điều hòa, phân bổ, phát triển, bảo vệ tài nguyên nước, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, tái sử dụng nước góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước và phòng, chống, khắc phục hậu quả, tác hại do nước gây ra. Nghiên cứu, thực hiện các giải pháp xử lý sạt lở tại các khu vực tập trung dân cư thuộc các tỉnh: An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền Giang. Nghiên cứu chỉnh trị dòng chảy trên toàn tuyến trên cơ sở đánh giá tổng thể tác động của dòng chảy thượng lưu, hoạt động phát triển kinh tế - xã hội trên đồng bằng và xâm nhập mặn ở hạ lưu.

Lập bản đồ phân vùng lún mặt đất, ngập lụt cho toàn vùng trên cơ sở ứng dụng công nghệ, kỹ thuật hiện đại. Xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống theo dõi, giám sát diễn biến lún tại một số khu vực có mức độ lún cao làm cơ sở để các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện các giải pháp ứng phó phù hợp. Đồng thời, khắc phục, hạn chế xâm nhập mặn nước dưới đất trên cơ sở hạn chế, tiến tới dừng sử dụng giếng khoan đường kính nhỏ, chuyển đổi hình thức khai thác, sử dụng nước dưới đất phân tán nhỏ lẻ sang quy mô cấp nước tập trung công nghiệp, tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu kỹ thuật khoan thi công, xây dựng các công trình ngầm và trám lấp lỗ khoan theo quy định.

Xác lập cơ chế phối hợp liên ngành, liên vùng, liên quốc gia trong việc phòng, chống, khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra trên cơ sở xây dựng các bản đồ về nguy cơ sạt lở bờ sông, sụt lún đất, xâm nhập mặn các tầng chứa nước do khai thác nước dưới đất quá mức.

Đồng thời, ứng dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại, thông minh để sử dụng nước tuần hoàn, tiết kiệm và tái sử dụng nước, quản lý, bảo vệ nguồn nước, phát triển nguồn nước, liên kết nguồn nước.

Hiện nay, lưu vực sông Cửu Long đã và đang đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng, nhất là các tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, hạn hán, gia tăng xâm nhập mặn, xói lở bờ sông, bờ biển, sụt lún đất... Do đó, Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long sẽ góp phần cân bằng giữa lượng nước có thể khai thác và nhu cầu sử dụng nước trước tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng và do khai thác, sử dụng nước ở thượng lưu. Mặt khác, bảo vệ được các hệ sinh thái phụ thuộc vào nước, kiểm soát được tình trạng gia tăng ô nhiễm nguồn nước ở các khu dân cư, khu đô thị lớn, khu công nghiệp tập trung; hạn chế tình trạng xâm nhập mặn vùng cửa sông và các tầng chứa nước… Đặc biệt bảo đảm sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và bền vững nguồn nước.


Đỗ Quyên
Ý kiến bình luận
Họ và tên *
Email *
Nội dung bình luận *
Xác thực *

Bản quyền thuộc Tạp chí Thanh tra