Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách, chương trình liên quan đối với Cô đỡ thôn bản

Thứ ba, 14/03/2023 15:00
(ThanhtraVietNam) - Sức khỏe và sự sống còn của bà mẹ là một nội dung được ưu tiên hàng đầu trong các chương trình về sức khỏe và sự phát triển của đất nước. Duy trì và mở rộng mạng lưới Cô đỡ thôn bản (CĐTB) đóng vai trò quan trọng trong cải thiện kết quả sức khỏe bà mẹ, cứu sống các bà mẹ và trẻ sơ sinh tại miền núi và vùng sâu, vùng xa của nước ta.

Công bằng về chính sách và nguồn lực sức khỏe, không phụ thuộc vào rào cản về địa lý, văn hóa, kinh tế

Trong những năm qua, được sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, sự hỗ trợ của các Bộ/Ngành, của cấp ủy và chính quyền các cấp cũng như của các tổ chức quốc tế, sự nỗ lực của Ngành Y tế, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ về chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em. Tỉ số tử vong mẹ tại Việt Nam đã giảm mạnh. Tuy nhiên, chúng ta vẫn đang gặp những thách thức trong việc giảm sự chênh lệch đáng kể về tình trạng sức khỏe, tử vong mẹ, tử vong trẻ em giữa các vùng miền, các nhóm dân tộc.

Việc chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) miền núi, vùng sâu, vùng xa gặp rất nhiều khó khăn. Trong hoàn cảnh đó, CĐTB người dân tộc thiểu số tại các vùng khó khăn là một giải pháp tạm thời nhưng rất hiệu quả trong giai đoạn hiện nay, nhằm giúp gỡ bỏ những rào cản về địa lý, văn hóa và kinh tế khiến cho phụ nữ người dân tộc thiểu số không thể tiếp cận được tới các dịch vụ khám thai, đỡ đẻ an toàn và chăm sóc sau sinh.

Theo Bộ Y tế, được hình thành từ những năm 90 của thế kỷ trước, đội ngũ CĐTB đóng góp không nhỏ trong công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt trong việc giảm tử vong mẹ và tử vong trẻ sơ sinh. CĐTB là những người sinh sống tại cộng đồng dân tộc thiểu số, sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình để truyền đạt cho người dân thôn bản những thông tin quan trọng về chăm sóc sức khỏe, đồng thời cung cấp dịch vụ làm mẹ an toàn ngay tại thôn bản.

Để trở thành CĐTB, mỗi học viên phải trải qua quá trình học tập ít nhất là 6 tháng theo chương trình và nội dung đào tạo của Bộ Y tế. Với kiến thức, kỹ năng được đào tạo và thực hành tại các bệnh viện, cô đỡ thôn, bản có thể chăm sóc bà mẹ khi có thai và sinh con, đỡ đẻ an toàn, phát hiện các tai biến ở bà mẹ và trẻ sơ sinh, thực hiện các kỹ năng cứu sống cơ bản và chuyển tuyến kịp thời. Với sự quan tâm, đầu tư của Nhà nước, sự hỗ trợ của các tổ chức trong nước và quốc tế, đến nay toàn quốc đã có 3.077 CĐTB được đào tạo.

Và dù cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều quyết sách quan trọng để duy trì, củng cố và phát triển đội ngũ CĐTB, nhưng việc thực thi các chính sách còn có sự khác nhau giữa các địa phương, dẫn tới việc duy trì hoạt động của đội ngũ cô đỡ gặp nhiều khó khăn, nhiều địa phương không bố trí kinh phí hỗ trợ cho CĐTB hoạt động. Theo báo cáo của các địa phương, tính đến 31/01/2023 đã có 1.528 CĐTB được đào tạo nhưng đã ngừng hoạt động do không có kinh phí. Hiện tại, số CĐTB được hưởng phụ cấp đã giảm xuống chỉ còn 911 người, trong đó có 732 người kiêm nhiệm thêm nhiệm vụ của nhân viên Y tế thôn bản.

leftcenterrightdel
 Cô đỡ thôn bản đóng góp to lớn vào bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em vùng DTTS , miền núi. Ảnh: P.V

Chung tay thực hiện chính sách hỗ trợ cô đỡ thôn bản vì sức khỏe bà mẹ, trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Theo Uỷ ban Dân tộc, số liệu điều tra thống kê thực trạng kinh tế - xã hội 53 DTTS năm 2019 cho thấy, 23,8% phụ nữ DTTS sinh con thứ 3 trở lên, bình quân 01 phụ nữ sinh 2,35 con, cao hơn mức bình quân của cả nước là 2,09 con, cá biệt có 05 DTTS có mức sinh cao nhất là Mảng (4,97 con/phụ nữ), Chứt (3,82 con/phụ nữ), Cơ lao (3,71 con/phụ nữ), La Hủ (3,68 con/phụ nữ), Mông (3,57 con/phụ nữ).

Còn khoảng 12% phụ nữ mang thai không đến các cơ sở y tế khám thai lần thứ nhất; tỷ lệ này rất cao ở dân tộc La Hủ 54,7%, La ha 36,5%, Mảng 34,1%.  Vẫn còn 13,6% phụ nữ DTTS không sinh con tại cơ sở y tế, 3,9% sinh con tại nhà có cán bộ chuyên môn đỡ, 9,5% sinh con tại nhà không có cán bộ chuyên môn đỡ; một số dân tộc như Mảng, Mông, Cống và La Hủ có tỷ lệ sinh con tại nhà không có cán bộ chuyên môn đỡ rất cao, lần lượt là 50,6%, 38,8%, 37% và 36,5%;

Đáng buồn là tỷ suất chết trẻ em DTTS dưới 01 tuổi 2,2% (cá biệt dân tộc La Hủ 6,6%, dân tộc Lự 5,9%, dân tộc Si La 5,1%...). Vùng DTTS&MN vẫn còn 16,5% trạm y tế chưa đạt chuẩn quốc gia; gần 1/5 trạm y tế chưa có bác sỹ, số nhân viên nữ hộ sinh chỉ chiếm 15,1%; 16,5% thôn chưa có nhân viên y tế thôn bản.

Uỷ ban Dân tộc đánh giá và ghi nhận đóng góp to lớn của đội ngũ các CĐTB, đã ngày đêm không quản nắng mưa, "vác tù và hàng tổng", đi từng ngõ, gặp từng nhà, tuyên truyền vận động, tư vấn, can thiệp, hỗ trợ, giúp đỡ phụ nữ DTTS trong quá trình mang thai, sinh nở, chăm sóc trẻ em. Chính vì vậy, đã giúp các thai phụ tiếp cận, sử dụng các dịch vụ y tế, hạn chế tai biến không đáng có, giảm đáng kể tỷ lệ tử vong mẹ, trẻ em.

Đồng thời, cơ quan này cũng đề nghị Bộ Y tế phối hợp chặt chẽ với Uỷ ban Dân tộc và các Bộ/ngành Trung ương trong việc kiểm tra, rà soát, nghiên cứu, xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các chính sách đối với đội ngũ CĐTB. Và đề nghị cấp uỷ, chính quyền, hệ thống chính trị cơ sở các cấp vùng DTTS và miền núi xác định rõ vai trò, vị trí của CĐTB; quan tâm chỉ đạo, tổ chức triển khai có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia, nhất là thực hiện đúng, đầy đủ các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với CĐTB.

Đại diện UNICEF Việt Nam cho rằng, sức khỏe và sự sống còn của bà mẹ vẫn là một trong các nội dung được ưu tiên hàng đầu trong các chương trình nghị sự về sức khỏe và sự phát triển của đất nước. Và để có thể duy trì những tiến bộ vượt bậc mà Việt Nam đã đạt được trong những thập kỷ qua, hơn bao giờ hết, chúng ta cần có nhiều nỗ lực hơn nữa để đảm bảo rằng tất cả các bà mẹ, bất kể thuộc dân tộc nào hay đến từ đâu, đều có thai kỳ khỏe mạnh và được cán bộ y tế có kỹ năng chăm sóc khi sinh.

Các CĐTB ở miền núi và vùng sâu, vùng xa là tài sản quí giá trong hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu. Việc duy trì và mở rộng mạng lưới CĐTB có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả sức khỏe bà mẹ, cứu sống các bà mẹ và trẻ sơ sinh. Theo đó, đại diện UNICEF Việt Nam đề xuất lĩnh vực cần được Bộ Y tế, các Bộ ngành liên quan và chính quyền cấp tỉnh tiếp tục quan tâm và có các hành động sát sao hơn nữa, gồm tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách, chương trình liên quan đối với Cô đỡ thôn bản, đặc biệt là ở tuyến tỉnh.

Cũng như quan tâm xây dựng và cập nhật các nghị quyết, kế hoạch hành động và hướng dẫn thực hiện cấp quốc gia và cấp tỉnh để hỗ trợ đầy đủ cho việc đào tạo, triển khai, vận hành và duy trì đội ngũ cô đỡ thôn bản, bao gồm việc phân bổ ngân sách đầy đủ trong bối cảnh tăng cường nguồn nhân lực cho hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Việt Nam./.

Lan Anh
Ý kiến bình luận
Họ và tên *
Email *
Nội dung bình luận *
Xác thực *

Bản quyền thuộc Tạp chí Thanh tra