Để nâng cao hiệu quả công tác phối hợp trong hoạt động thanh tra chuyên ngành Công an nhân dân

Thứ hai, 17/02/2020 14:14
(ThanhtraVietNam) - Trong cơ chế tổ chức bộ máy của Nhà nước ta, quyền lực là tập trung thống nhất, đồng thời, có sự phân công, phân cấp, phối hợp cùng thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Điều này được thể hiện rõ tại Khoản 3 Điều 1 Hiến pháp năm 2013 của Nhà nước ta: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Mặc dù quan hệ phối hợp là bình đẳng, nhằm thực hiện mục tiêu chung nhưng trong mối quan hệ này luôn cần thiết phải xác định cơ quan có trách nhiệm chủ trì nhằm đảm bảo tính trách nhiệm và sự phối hợp nhịp nhàng.

Trong hoạt động thanh tra, cơ quan thanh tra phải là đơn vị chủ trì, đề ra và tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch, nội dung, yêu cầu phối hợp và phải chịu trách nhiệm chính cho kết quả của hoạt động phối hợp. Bên cạnh việc xác định vai trò chủ trì của cơ quan thanh tra, việc xác định trách nhiệm “tạo điều kiện thuận lợi” cho cơ quan thanh tra hoàn thành nhiệm vụ của các cơ quan tham gia phối hợp là cụ thể hóa trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ công tác thanh tra của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân được quy định trong pháp luật về thanh tra.

Cơ sở pháp lý để thực hiện phối hợp trong hoạt động thanh tra Công an nhân dân (CAND) nói chung và thanh tra chuyên ngành CAND nói riêng, trước hết phải căn cứ vào các quy định pháp luật của Nhà nước về trách nhiệm, quyền, nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật về thanh tra; Luật Công an nhân dân, Luật Thanh tra và các văn bản quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Công an.

Điều 8 Luật Thanh tra năm 2010 đã quy định về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong hoạt động thanh tra. Theo đó, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo hoạt động thanh tra, xử lý kịp thời kết luận, kiến nghị thanh tra và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình.

Điều 11 Luật Thanh tra năm 2010 còn có quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong thực hiện các yêu cầu về thanh tra; trách nhiệm phối hợp giữa cơ quan thực hiện chức năng thanh tra với cơ quan, tổ chức hữu quan. Trong đó, có quy định: Cơ quan, tổ chức hữu quan khác khi nhận được yêu cầu, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra có trách nhiệm thực hiện và trả lời bằng văn bản về việc thực hiện yêu cầu, kiến nghị, quyết định xử lý đó.

Tại Điều 7 Nghị định số 41/2014/NĐ-CP ngày 13/5/2014 của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động Thanh tra CAND cũng có các quy định cụ thể về mối quan hệ công tác của cơ quan thanh tra trong CAND. Theo đó, Thanh tra Bộ chịu sự chỉ đạo, điều hành của Bộ trưởng Bộ Công an và chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về nghiệp vụ thanh tra của Thanh tra Chính phủ. Quan hệ giữa cơ quan thanh tra trong CAND với các cơ quan, đơn vị chức năng là quan hệ phối hợp để thực hiện nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật và của Bộ Công an. Cơ quan thanh tra trong CAND phối hợp với Thanh tra các bộ, ngành và các cơ quan liên quan khác ở Trung ương, địa phương trong quá trình thanh tra các vấn đề liên quan đến các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Công an và đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật.

Cụ thể hóa các quy định của pháp luật hiện hành, Bộ Công an đã ban hành Thông tư số 03/2015/TT-BCA Quy định về phối hợp trong hoạt động thanh tra hành chính của lực lượng CAND.

leftcenterrightdel
 4 tập thể được nhận danh hiệu "Quyết thắng"

Tuy nhiên, cho đến nay, Bộ Công an chưa có thông tư quy định về phối hợp trong hoạt động thanh tra chuyên ngành của lực lượng CAND. Đây cũng là một trong các nguyên nhân dẫn đến một số khó khăn, lúng túng trong quá trình phối hợp hoạt động thanh tra việc chấp hành pháp luật về an ninh trật tự trong thời gian qua.

Về thực tiễn công tác phối hợp thanh tra chuyên ngành CAND, hàng năm, căn cứ vào tính chất, nội dung chuyên đề thanh tra, xác định cơ quan, đơn vị cần phối hợp để thực hiện có hiệu quả nhất, Phòng 5, Thanh tra Bộ Công an đã tham mưu cho lãnh đạo Thanh tra trình lãnh đạo Bộ kế hoạch thanh tra của Lực lượng CAND chung, trong đó có thanh tra chuyên ngành CAND và đơn vị, địa phương phối hợp tiến hành thanh tra.

Trong thời gian qua, Thanh tra Bộ đã chủ trì và phối hợp với Bộ Y tế; Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội; Bộ Giao thông vận tải… tiến hành có hiệu quả các chuyên đề thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật trên các lĩnh vực: Phòng, chống ma túy, thực hiện quyền trẻ em; xuất cảnh, nhập cảnh, quản lý cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam; tải trọng…; Phối hợp với thanh tra nhà nước các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong một số chuyên đề: Phòng cháy và chữa cháy, xuất cảnh, nhập cảnh, quản lý cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam...; Phối hợp với các cục nghiệp vụ, công an các đơn vị, địa phương tiến hành các cuộc thanh tra đòi hỏi chuyên môn, kỹ thuật, chuyên ngành riêng, như: Bí mật nhà nước; phòng cháy chữa cháy; phòng chống ma túy; thi hành án hình sự; công an xã...

Kết quả thanh tra cho thấy, hoạt động phối hợp đã cơ bản đạt được các mục đích, yêu cầu đặt ra. Thông qua công tác phối hợp vừa góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả thanh tra, vừa phát huy vai trò ảnh hưởng tích cực của các cuộc thanh tra đối với việc chấn chỉnh các mặt công tác; vừa từng bước nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ tham gia các đoàn thanh tra.

Nhìn chung, đội ngũ cộng tác viên thanh tra đã có những đóng góp đáng kể trong các cuộc thanh tra, đã phát huy kinh nghiệm, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức pháp luật trong thực hiện các nhiệm vụ thanh tra. Quá trình tham gia phối hợp, đội ngũ cộng tác viên thanh tra đã chấp hành nghiêm kỷ luật công tác, đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ được Trưởng đoàn thanh tra phân công. Đến nay, chưa có trường hợp nào vi phạm các quy định pháp luật thanh tra cũng như các quy định của Bộ Công an; không có trường hợp nào bị phản ánh không tích cực khi tham gia phối hợp thực hiện nhiệm vụ thanh tra.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác phối hợp còn một số hạn chế nhất định, như: hoạt động phối hợp chủ yếu tập trung vào khâu tiến hành thanh tra trực tiếp; công tác phối hợp, trao đổi thông tin trong xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, các quy định có liên quan đến an ninh trật tự còn hạn chế.

Một số ít cán bộ được phân công tham gia các đoàn thanh tra do Bộ Công an chủ trì còn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ thanh tra, chưa nhận thức sâu sắc nhiệm vụ công tác thanh tra; chưa tích cực nghiên cứu tài liệu, thông tin trong quá trình thanh tra nên chưa phát hiện được nhiều những vấn đề trọng tâm để đưa ra những kiến nghị biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả lĩnh vực thanh tra.

Ngoài ra, việc phối hợp nhằm làm rõ cơ sở pháp lý của hoạt động quản lý nhà nước về an ninh trật tự cũng như hoạt động thanh tra còn hạn chế. Trong đó, có các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước về bảo vệ an ninh Quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, phòng, chống tội phạm, thuộc phạm vi quản lý nhà nước của CAND, đã được quy định trong Luật CAND nhưng chưa được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật chuyên ngành, như: An ninh kinh tế, an ninh văn hóa tư tưởng, an ninh thông tin; kinh doanh có điều kiện...

Để nâng cao hiệu quả công tác thanh tra chuyên ngành CAND nói chung và trong công tác phối hợp nói riêng, tác giả xin đề xuất một số giải pháp sau:

Một là, chủ động làm tốt công tác tham mưu nhằm tranh thủ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, Thủ trưởng Công an các cấp đối với công tác thanh tra CAND nói chung và thanh tra chuyên ngành CAND nói riêng. Đẩy mạnh tuyên truyền pháp luật về thanh tra chuyên ngành CAND nhằm tạo sự quan tâm, đồng thuận, giúp đỡ của các cấp, các ngành, các địa phương và toàn xã hội đối với việc thực hiện nhiệm vụ thanh tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ an ninh Quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, phòng chống tội phạm.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế về hoạt động thanh tra CAND nói chung và thanh tra chuyên ngành của lực lượng CAND, tạo cơ sở pháp lý cho việc phối hợp giữa cơ quan thanh tra và cơ quan đơn vị, chức năng trong hoạt động thanh tra. Trước mắt cần tập trung đẩy nhanh tiến độ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 41/NĐ-CP của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động thanh tra CAND cho phù hợp với tổ chức, bộ máy mới. Nghiên cứu tham mưu cho Bộ Công an, trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định về hoạt động thanh tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ an ninh Quốc gia và bảo đảm trật tự an toàn xã hội, phòng, chống tội phạm. Trong đó, có quy định cụ thể trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương đối với hoạt động này. 

Ba là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra chuyên ngành CAND đáp ứng yêu cầu công tác trong tình hình mới. Tăng cường đủ biên chế, bố trí những đồng chí có phẩm chất đạo đức tốt, có kinh nghiệm thực tiễn, được đào tạo cơ bản theo lĩnh vực để theo dõi từng chuyên đề. Nghiên cứu, phân công nhiệm vụ theo chuyên đề ổn định theo lĩnh vực quản lý Nhà nước về an ninh trật tự để đảm bảo tính chuyên sâu. Thường xuyên cập nhật kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ và văn bản quy phạm pháp luật trên các lĩnh vực quản lý Nhà nước cho cán bộ để đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ tham mưu, hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ.

Bốn là, quan tâm thực hiện chế độ chính sách cho cán bộ làm công tác thanh tra CAND. Nghiên cứu, kiến nghị cấp có thẩm quyền xem xét sửa đổi, áp dụng các quy định về chế độ chính sách để đảm bảo quyền lợi chính đáng của cán bộ, chiến sĩ thanh tra CAND.

Năm là, tham mưu để lãnh đạo các cấp quan tâm xây dựng đội ngũ cộng tác viên thanh tra đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Trong quá trình trưng tập cộng tác viên tham gia hoạt động thanh tra cần thực hiện đầy đủ các chế độ chính sách theo đúng quy định; kịp thời động viên đối với những đồng chí hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tích cực đóng góp cho công tác thanh tra chuyên ngành CAND.

Sáu là, tổ chức các hội nghị, hội thảo phục vụ tổng kết chuyên đề thanh tra diện rộng, trong đó, có công tác phối hợp với các bộ, ngành, địa phương nhằm đề ra các phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả chuyên đề phối hợp, quan hệ phối hợp trong hoạt động thanh tra chuyên ngành của lực lượng CAND./.

 Thượng tá, Ths. Lê Thị Hạnh

Thanh tra Bộ Công an

Tài liệu tham khảo:

1.    Luật Công an nhân dân năm 2018;

2.    Luật Thanh tra năm 2010;

3.    Nghị định 41/2014/NĐ-CP ngày 13/5/2014;

4.    Quyết định 09/2010/QĐ-TTg ngày 08/02/2010;

5.    Báo cáo Tổng kết số 2083/BC-V24- P5 ngày 14/12/2016;

6.    Báo cáo Tổng kết số 2139/BC-V24-P5 ngày 12/12/2017;

7.    Báo cáo Tổng kết số 75/BC-X05-P5 ngày 22/11/2018.

Ý kiến bình luận
Họ và tên *
Email *
Nội dung bình luận *
Xác thực *

Bản quyền thuộc Tạp chí Thanh tra