Hoàn thiện quy định về hình phạt trong pháp luật Hình sự Việt Nam hiện nay

Thứ tư, 12/02/2020 10:25
(ThanhtraVietNam) - Hình phạt là một trong những chế định quan trọng, nghiêm khắc của Nhà nước được quy định trong pháp luật hình sự. Trải qua các thời kỳ, pháp luật Hình sự Việt Nam không ngừng đổi mới, hoàn thiện hệ thống hình phạt theo hướng ngày càng nhân văn, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đồng thời, vẫn bảo đảm tính răn đe, tạo cơ chế ngăn ngừa tội phạm, thiết chặt kỷ cương pháp luật trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong pháp luật Hình sự Việt Nam, khái niệm hình phạt được quy định lần đầu tiên tại Điều 26 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009. Theo đó, khái niệm hình phạt được hiểu là “biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Khung hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự và sẽ do Toà án quyết định mức hình phạt cụ thể”. Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung thêm chủ thể là pháp nhân thương mại. Theo đó, khái niệm hình phạt được luật định như sau: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật hình sự, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó(1).

1. Thực trạng quy định về hình phạt trong pháp luật Hình sự Việt Nam và những vấn đề đặt ra

Nghiên cứu pháp luật Hình sự Việt Nam cho thấy, các quy định pháp luật về hình phạt ngày càng đổi mới, hoàn thiện theo hướng thể hiện rõ tư tưởng nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với cá nhân và pháp nhân phạm tội. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) (sau đây gọi tắt là BLHS) tiếp tục đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, tôn trọng và bảo đảm thực thi quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013(2). Cụ thể như sau:

Thứ nhất, hệ thống hình phạt, trong đó các hình phạt chính được sắp xếp theo một trật tự nhất định từ hình phạt nhẹ đến hình phạt nặng, từ hình phạt ít nghiêm khắc đến hình phạt nghiêm khắc nhất. Mặt khác, trong các hình phạt khác nhau có nhiều hình phạt không tước tự do, điều đó thể hiện được tư tưởng nhân văn pháp luật hình sự của Nhà nước ta là đi từ cải tạo, giáo dục tới trừng trị nghiêm khắc đối với người phạm tội. Hình phạt, về bản chất không phải là sự trả thù của Nhà nước đối với người phạm tội mà mục đích chính của hình phạt là giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.

Từng hình phạt khác nhau cũng có sự thay đổi về nhận thức và áp dụng theo xu hướng chung là mở rộng phạm vi áp dụng các hình phạt ít nghiêm khắc, đồng thời hạn chế phạm vi áp dụng các hình phạt nghiêm khắc.

leftcenterrightdel

Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự thời gian qua cho thấy, mặc dù khá coi trọng tính trừng trị, tuy nhiên, những hình phạt đã tuyên cho thấy xu hướng nhân đạo, nhân văn và hướng thiện đã thể hiện rất rõ. Trong khi các hình phạt nặng như chung thân và tử hình có xu hướng ít được áp dụng hơn thì các hình phạt nhẹ như phạt tiền, cải tạo không giam giữ và phạt tù cho hưởng án treo lại ngày càng được các tòa án áp dụng nhiều hơn. Xu hướng tăng cường áp dụng án treo là một xu hướng tích cực trong áp dụng pháp luật hình sự ở Việt Nam trong những năm gần đây.

Thứ hai, ngoài các biện pháp cưỡng chế hình sự, các biện pháp tha, miễn hình sự cũng được chú trọng đề cập với mục đích nhân đạo, là những quy định có lợi tạo điều kiện thuận lợi cho người phạm tội có cơ hội tái hòa nhập cộng đồng một cách tốt nhất. Ngoài việc xác định các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, miễn chấp hành hình phạt, xóa án tích… BLHS hiện hành đã bổ sung chế định tha tù trước hạn có điều kiện(3) với những quy định hết sức chặt chẽ nhưng đầy tính nhân văn, nhằm tạo cơ hội cho những phạm nhân tích cực cải tạo tốt trong quá trình chấp hành án ở các cơ sở giam giữ được sớm trở về với gia đình và xã hội, đồng thời tiếp tục chứng tỏ sự cải tạo của mình trong môi trường xã hội bình thường, có sự giám sát của chính quyền địa phương và của gia đình. Quy định này góp phần thực hiện chủ trương của Đảng về việc giáo dục, cải tạo người phạm tội, xóa bỏ dần những định kiến của xã hội đối với người đã từng vi phạm pháp luật trong quá khứ nhưng có sự cải tạo tốt, thể hiện quyết tâm “hướng thiện(4).

Bên cạnh những kết quả đạt được, hệ thống quy định về hình phạt hiện hành ở nước ta còn thiếu nhiều chế định hình phạt mang tính tiến bộ của một số nước trên thế giới, làm giảm hiệu quả và tạo nên sự đơn điệu của hệ thống hình phạt. Cụ thể là:

- Pháp luật hình sự chưa có quy định hình phạt “Lao động bắt buộc” trong hệ thống hình phạt chính thay cho hình phạt “Cảnh cáo” và điều kiện để áp dụng hình phạt này tương tự như điều kiện áp dụng của hình phạt cảnh cáo: “được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt”. Hình phạt này tạo ra nghĩa vụ bắt buộc đối với người bị kết án bởi lẽ hình phạt “Cảnh cáo” không ràng buộc bất kỳ nghĩa vụ nào đối với người bị kết án sau khi bị tòa tuyên án.

- Một số hình phạt trong Luật Hình sự Việt Nam vẫn còn mang tính trừng trị nhiều hơn giáo dục vẫn được Tòa án ưu tiên lựa chọn trong quyết định hình phạt là hình phạt tù có thời hạn mặc dù điều luật có thể cho phép áp dụng bằng hình phạt khác không phải hình phạt tù (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ…) để thay thế. Cần thiết phải tăng cường áp dụng những hình phạt không phải hình phạt tù nhằm tạo sự cân đối trong hệ thống hình phạt và cá thể hóa trách nhiệm hình phạt và giảm áp lực cho các nhà tù. Ngoài ra, cần chú ý tới việc nghiên cứu xây dựng những khung hình phạt tù có giới hạn tối thiểu và tối đa thích hợp theo hướng rút ngắn khoảng cách giữa chúng nhằm tránh sự tùy tiện trong quyết định hình phạt của Tòa án.

- Trong hệ thống hình phạt chính, các hình phạt khác (ngoài hình phạt tù) còn chiếm một tỷ trọng khá khiêm tốn trong từng điều luật về các tội cụ thể. Hơn nữa, các hình phạt này được quy định ở dạng lựa chọn với hình phạt tù mà chưa quy định độc lập với hình phạt tù. Việc quy định như vậy chưa mở ra khả năng áp dụng rộng rãi các hình phạt không phải hình phạt tù.

- Hình phạt tiền vẫn chưa được mở rộng và còn hạn chế bị áp dụng trên thực tế cũng như chỉ áp dụng như một hình phạt bổ sung mà ít chú trọng áp dụng như một hình phạt chính độc lập. So với kinh nghiệm quốc tế, ở nước ta, điều này còn hạn chế. Luật Hình sự Việt Nam cần tăng cường hình phạt tiền (hình phạt chính lẫn hình phạt bổ sung). Cần quy định mức tối thiểu và mức tối đa của hình phạt tiền không quá chênh lệch, quy định số lượng tiền phải phạt dựa trên thiệt hại thực tế hoặc giá trị số lượng hàng, vật phạm pháp có được do phạm tội mà có để xác định mức tiền phạt cụ thể tại thời điểm cụ thể.

- Hình phạt tù chung thân trong Luật Hình sự Việt Nam cũng đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc liên quan đến quy định hình phạt tù chung thân có giảm án và tù chung thân không giảm án, cần được quy định cụ thể, rõ ràng hơn.

- Hình phạt tử hình vẫn còn duy trì trong hệ thống hình phạt Việt Nam, điều này chưa hoàn toàn phù hợp với xu hướng chung của thế giới là giảm và tiến tới bỏ hình phạt tử hình do tính chất nhân đạo chung. Do đó, cần thiết loại bỏ hình phạt này ra khỏi hệ thống hình phạt Việt Nam theo lộ trình thích hợp. Vì trong tình hình xã hội hiện tại, để bảo vệ an ninh quốc gia, tăng cường trật tự kỷ cương pháp chế thì việc duy trì hình phạt này vẫn còn cần thiết.

- Hệ thống hình phạt bổ sung trong Luật Hình sự Việt Nam so với một số nước khá phong phú nhưng hiệu quả và tần suất áp dụng còn thấp vì bị xem là “hình phạt phụ”. Việc áp dụng một số hình phạt bổ sung vẫn còn vướng mắc (ví dụ đối với hình phạt cấm cư trú: khi chấp hành xong hình phạt tù, Nhà nước rất khó bố trí nơi ở mới cho người bị kết án, người gặp khó khăn trong tìm kiếm việc làm, ổn định đời sống…) Việc áp dụng hình phạt bổ sung trong từng tội cụ thể còn mang tính tùy nghi chưa mang tính bắt buộc; do đó, cần quy định hình phạt bổ sung trong một số tội phải mang tính bắt buộc áp dụng.

Mặt khác, các hình phạt bổ sung hiện nay cách bố trí trong từng tội cụ thể của điều luật phần các tội phạm còn chưa rõ ràng và không thuận tiện cho việc áp dụng, đó là quy định thành một điểm chung ở cuối mỗi chương trong phần các tội phạm, hoặc cuối một điều luật trong phần các tội phạm. Để thuận tiện và rõ ràng trong việc áp dụng, cần phải quy định trong từng khoản cụ thể của từng điều luật.

- Về thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về hình phạt: Mặc dù hệ thống pháp luật hình sự nước ta ngày càng hoàn thiện nhưng thực tiễn áp dụng các quy định này còn nhiều hạn chế. Tình hình tội phạm từ khi BLHS năm 1999 có hiệu lực đến nay không ngừng gia tăng, diễn biến phức tạp, với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt và đa dạng, trên một số lĩnh vực có xu hướng gia tăng, nghiêm trọng hơn cả về quy mô và tính chất.

Ngoài các nguyên nhân về xã hội cũng như những hạn chế của các cơ quan thi hành pháp luật trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm thì nguyên nhân không kém phần quan trọng nữa đó là những thiếu sót của hệ thống pháp luật, trong đó có các quy định của BLHS về hình phạt, cần phải được nghiên cứu, sửa đổi đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.

2. Một số giải pháp hoàn thiện chế định hình phạt trong BLHS Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, cần mở rộng nguồn của luật hình sự trong quá trình sửa đổi BLHS. Hiện nay có các phương án sửa đổi liên quan đến nguồn của luật hình sự đó là(5): (1) Giữ nguyên quy định của BLHS hiện hành, đồng thời bổ sung chế định tội phạm và hình phạt vào các văn bản pháp luật chuyên ngành trong quá trình ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật chuyên ngành đó; (2) BLHS chỉ quy định những vấn đề chung và các tội phạm mang tính truyền thống còn các tội phạm thuộc lĩnh vực nào thì chuyển sang quy định luật chuyên ngành của lĩnh vực đó.

Thứ hai, quy định tội phạm và hình phạt trong các văn bản pháp luật chuyên ngành, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình áp dụng mà không cần phải có thêm văn bản hướng dẫn kèm theo. Cụ thể, những hành vi phát sinh trong những lĩnh vực “phi truyền thống” cần phải ngăn chặn kịp thời hoặc những hành vi được thực hiện bằng những thủ đoạn phạm tội mà quan điểm định tội còn nhiều khác biệt trong các cơ quan Tư pháp; Những hành vi phức tạp, đa dạng mà không thể quy định đầy đủ trong BLHS; Những hành vi phát sinh trong một số lĩnh vực chuyên ngành hẹp mà Nhà nước đã có luật riêng điều chỉnh; Những hành vi không ổn định, dễ phát sinh, thay đổi hoặc mất đi.

Thứ ba, nghiên cứu bỏ hình phạt cảnh cáo ra khỏi trong hệ thống hình phạt Việt Nam và thay bằng hình phạt lao động công ích bắt buộc. Bởi vì tính trừng trị, răn đe của hình phạt cảnh cáo rất thấp nên nếu áp dụng hình phạt này sẽ không đạt được mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung.

Thứ tư, BLHS Việt Nam cần quy định biện pháp cưỡng chế đối với người bị kết án trong trường hợp họ không nộp phạt đúng hạn nhằm bảo đảm khả năng thực thi của hình phạt tiền bằng việc áp dụng biện pháp cưỡng chế trong trường hợp người phạm tội không nộp tiền phạt đúng hạn; cân nhắc bổ sung quy định cho phép chuyển đổi loại hình phạt này thành hình phạt tù có thời hạn trong trường hợp người phạm tội không nộp tiền phạt(6)...

Thứ năm, nghiên cứu giảm mức tối thiểu của hình phạt tù có thời hạn xuống dưới 3 tháng và mức tối đa chỉ là 15 năm (nếu phạm một tội), 20 năm (nếu phạm nhiều tội hoặc có sự chuyển đổi từ hình phạt tử hình). Với mức tối đa của hình phạt tù có thời hạn chỉ là 20 năm vừa đủ để trừng trị người phạm tội và răn đe, ngăn ngừa những người không vững vàng trong xã hội, góp phần khắc phục tình trạng quá tải trong các trại giam ở Việt Nam như hiện nay.

Thứ sáu, cần thiết quy định các hình phạt khác (không phải hình phạt tù) ở khía cạnh là hình phạt độc lập, không phải ở dạng lựa chọn với hình phạt tù trong một số trường hợp cụ thể, tạo điều kiện áp dụng hiệu quả trong thực tiễn.

Thứ bảy, tăng cường hướng dẫn áp dụng các quy định của BLHS hiện hành.

Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có rất nhiều điều luật thể hiện rõ tính nhân đạo và hướng thiện. Tuy nhiên, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng, cần phải nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể, đẩy mạnh tuyên truyền áp dụng các quy định này.

Thứ tám, nâng cao đạo đức, trách nhiệm của các chủ thể áp dụng pháp luật

Áp dụng pháp luật hình sự là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền là cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án. Bên cạnh trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm công vụ của các chủ thể này giữ vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm tính nhân đạo và hướng thiện trong áp dụng pháp luật hình sự. Chỉ khi các chủ thể thực thi nhiệm vụ không vụ lợi, không sợ trách nhiệm; thực thi công vụ với lương tâm, trách nhiệm cao nhất của mình thì khi đó, tính nhân đạo và hướng thiện sẽ được thể hiện rõ nhất./.

 Hoàng Công Hoàn

Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên


Chú thích:

(1)     Điều 30, Bộ luật Hình sự năm 2015;

(2)     Phan Thị Bích Hiền - Tạp chí Khoa học giáo dục cảnh sát nhân dân số 99;

(3)     Điều 66 BLHS năm 2015;

(4)     Phan Thị Bích Hiền - Tư tưởng nhân đạo sâu sắc - Giá trị cốt lõi của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Tạp chí Khoa học giáo dục Cảnh sát nhân dân số 99;

(5)     TS. Đỗ Đức Hồng Hà, Bộ Tư pháp, thành viên đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện quy định Phần chung của BLHS Việt Nam đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới" do TS. Nguyễn Văn Luật, Phó chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội làm chủ nhiệm (2014)”;

(6)     Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-06-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020. 

Tài liệu tham khảo:

1.        Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013;

2.        Bộ luật Hình sự năm 2015;

3.        Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-06-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020;

4.        Bộ Luật Hình sự Việt Nam năm 1999, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2002;

5.        Trần Hữu Nam, “Một số vấn đề từ thực tiễn áp dụng hình phạt tử hình đối với tội giết người”, Tạp chí Kiểm sát, (số 3), năm 2004, tr. 31-34;

6.        Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Tập I, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2005;

7.        TS. Đỗ Đức Hồng Hà, Bộ Tư pháp, thành viên đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện quy định Phần chung của BLHS Việt Nam đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới" do TS. Nguyễn Văn Luật, Phó chủ nhiệm Ủy  ban Tư pháp của Quốc hội làm chủ nhiệm (2014);

8.        Báo cáo số: 241/BC-BCA ngày 03/6/2013 của Bộ Công an Tổng kết 03 năm (2008 - 2011) thi hành Bộ luật Hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009) trong Công an nhân dân;

9.        TS. Nguyễn Văn Luật -Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện quy định Phần chung của BLHS Việt Nam đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, Đề tài NCKH cấp Bộ (2014);

10.    Báo cáo số 3870/BQP-VPC ngày 07/12/2012 của Bộ Quốc phòng Tổng kết 11 năm thi hành Bộ luật Hình sự;

11.    Nguyễn Văn Khánh - “Hệ thống hình phạt trong Luật Hình sự Việt Nam từ góc độ so sánh với hệ thống hình phạt trong luật hình sự một số nước trên thế giới”, Tạp chí Kiểm sát tháng 8 số 16 năm 2018 trang 54-62;

12.    Phan Thị Bích Hiền - Tư tưởng nhân đạo sâu sắc - Giá trị cốt lõi của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Tạp chí Khoa học giáo dục Cảnh sát nhân dân số 99;

13.    Nguyễn Văn Bường, Chế định án treo theo pháp luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn miền Trung và Tây nguyên, Luận án tiến sỹ luật, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017, trang 160;

14.    Nguyễn Thành Chung, Áp dụng hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hội, 2018.


 

Ý kiến bình luận
Họ và tên *
Email *
Nội dung bình luận *
Xác thực *

Bản quyền thuộc Tạp chí Thanh tra