Những quy định mới của Luật Thanh tra 2010 về thanh tra chuyên ngành

Thứ ba, 05/07/2011 10:23
(Thanhtravietnam.vn) - Luật Thanh tra 2010 được xây dựng trên cơ sở phát triển những quy định  của Luật Thanh tra 2004, với 7 chương, 78 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2011. Luật Thanh tra lần này có nhiều điểm mới so với Luật Thanh tra 2004 cho thấy bước tiến đáng kể trong công tác xây dựng thể chế liên quan đến việc tổ chức và hoạt động ngành Thanh tra, nhất là thanh tra chuyên ngành. 

Điểm mới của Luật Thanh tra lần này trước hết là quy định mục đích của thanh tra nói chung, thanh tra chuyên ngành nói riêng. Điều này được thể hiện tại Điều 2 Luật Thanh tra 2010 “Mục đích hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Hoạt động thanh tra mang tính quyền lực nhà nước là sự xem xét, phát hiện và ngăn chặn những gì trái với quy định.

Những quy định mới của Luật Thanh tra 2010 đã làm cho hoạt động thanh tra từ chỗ chú trọng phòng ngừa, phát hiện sai phạm, kiến nghị xử lý đã từng bước chuyển sang hoạt động mang tính đồng hành, giúp đỡ và chia sẻ cùng cơ quan, đơn vị, cá nhân là đối tượng thanh tra; khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành; tìm ra những điều bất hợp lý, những quy định khó thực hiện kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoàn thiện các quy phạm pháp luật để hoạt động thanh tra nói chung, thanh tra chuyên ngành nói riêng ngày càng mang lại hiệu quả thiết thực hơn.

Luật Thanh tra 2010 đã quy định cụ thể hơn về thời gian của việc trình, duyệt kế hoạch thanh tra so với Luật thanh tra năm 2004 nhằm tạo điều kiện cho cơ quan thanh tra nhà nước và cơ quan được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành các cấp chủ động thời gian xây dựng và triển khai chương trình, kế hoạch thanh tra. Theo Khoản 3, Khoản 4, Điều 36 Luật Thanh tra 2010 quy định: Chậm nhất vào ngày 15 tháng 11 hàng năm Chánh Thanh tra bộ, Thủ trưởng cơ quan được giao chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc bộ căn cứ vào định hướng chương trình thanh tra, hướng dẫn của Tổng Thanh tra Chính phủ và yêu cầu công tác quản lý của bộ, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc bộ trình Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp phê duyệt kế hoạch thanh tra; chậm nhất vào ngày 05 tháng 12 hàng năm Chánh Thanh tra sở, Thủ trưởng cơ quan được giao chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc sở căn cứ vào kế hoạch thanh tra của Thanh tra Bộ, yêu cầu công tác quản lý của sở, cơ quan được giao chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc sở trình cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp phê duyệt kế hoạch thanh tra. Trách nhiệm phê duyệt kế hoạch thanh tra cũng được quy định rất rõ ràng: Bộ trưởng, Chủ tịch UBND cấp tỉnh có trách nhiệm phê duyệt kế hoạch thanh tra chậm nhất vào ngày 24 tháng 11 hàng năm; Giám đốc sở Chủ tịch UBND cấp huyện có trách nhiệm có trách nhiệm xem xét, phê duyệt kế hoạch thanh tra chậm nhất vào ngày 15 tháng 12 hàng năm.

Những quy định mới của Luật Thanh tra 2010 sẽ giúp hoạt động thanh tra nói chung, thanh tra chuyên ngành nói riêng ngày càng mang lại hiệu quả thiết thực hơn.



Luật Thanh tra 2004 quy định Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ, Thanh tra sở có chức năng thanh tra chuyên ngành nhưng  Luật Thanh tra 2010 quy định theo hướng mở rộng, tăng cường hoạt động của thanh tra chuyên ngành, hoạt động của thanh tra chuyên ngành không chỉ được tiến hành bởi Thanh tra bộ, Thanh tra sở, nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành còn được giao cho cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, đó là cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ngành, theo lĩnh vực bao gồm tổng cục, cục thuộc bộ, chi cục thuộc sở. Theo quy định tại các Điều 29, 30 Luật Thanh tra 2010, "Việc giao chức năng thanh tra chuyên ngành cho cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ngành, theo lĩnh vực do Chính phủ quy định theo đề nghị của Tổng Thanh tra Chính phủ sau khi đã thống nhất với Bộ trưởng", "Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành không thành lập cơ quan chuyên ngành độc lập, hoạt động thanh tra chuyên ngành do người thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành thực hiện theo quy định của Luật này...", Luật Thanh tra 2010 quy định thành viên Đoàn thanh tra chuyên ngành được xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, trong khi đó Luật Thanh tra 2004 chỉ giao quyền này cho người ra quyết định thanh tra và Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành.

Thực hiện chức năng giúp Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp về công tác thanh tra, theo quy định của Luật Thanh tra 2010 cơ quan thanh tra cấp bộ, sở được giao một số nhiệm vụ, quyền hạn mang tính chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn đối với cơ quan được giao chức năng thanh tra chuyên ngành, như quy định tại Điều 18: Thanh tra bộ "Hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành đối với các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc bộ, Thanh tra sở; hướng dẫn, kiểm tra đơn vị thuộc bộ thực hiện quy định của pháp luật về thanh tra"; Thanh tra bộ, Thanh tra sở có nhiệm vụ, quyền hạn yêu cầu Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành báo cáo về công tác thanh tra; tổng hợp, báo cáo kết quả về công tác thanh tra thuộc phạm vi quản lý nhà nước; theo quy định tại Điểm b, Khoản 2, Điều 19 Chánh thanh tra bộ "Quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc bộ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh kết luận nhưng có dấu hiệu vi phạm pháp luật khi được Bộ trưởng giao".
 
Ngoài ra, theo quy định tại Điểm d, Khoản 2, Điều 18 Thanh tra bộ có nhiệm vụ, quyền hạn "Kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết định xử lý sau thanh tra của Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc bộ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh đối với vụ việc thuộc ngành lĩnh vực quản lý của bộ khi cần thiết", Thanh tra sở cũng được giao nhiệm vụ, quyền hạn tương tự.

Luật Thanh tra 2010 quy định mở rộng về hình thức thanh tra, ngoài việc thanh tra theo kế hoạch và thanh tra đột xuất khi phát hiện tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật, theo yêu cầu giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giao theo như quy định của Luật Thanh tra 2004; thanh tra chuyên ngành theo Luật Thanh tra 2010 (Điều 37) còn tiến hành thanh tra đột xuất theo yêu cầu phòng, chống tham nhũng và tiến hành thanh tra thường xuyên trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của cơ quan được giao chức năng thanh tra chuyên ngành.

Thanh tra luôn gắn liền với quản lý nhà nước, trong mối quan hệ giữa quản lý và thanh tra thì quản lý nhà nước giữ vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động của thanh tra. Xét về cơ cấu, chức năng của quản lý thì thanh tra chỉ là những công cụ, phương tiện để quản lý nhà nước, tuy nhiên thanh tra cũng có tính độc lập tương đối với quản lý nhà nước. Có thể nói rằng theo quy định của Luật Thanh tra 2004, tổ chức và hoạt động của các cơ quan Thanh tra nhà nước gần như phụ thuộc hoàn toàn vào cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp thể hiện ở việc cơ quan thanh tra nhà nước phải thực hiện chương trình, kế hoạch thanh tra hàng năm do Thủ tướng Chính phủ và Thủ trưởng cơ quan quan quản lý nhà nước cùng cấp phê duyệt; trong việc thanh tra đột xuất chỉ được tiến hành khi có quyết định thanh tra của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật (trừ Thanh tra Chính phủ). Điều này làm cho hoạt động thanh tra mang tính thụ động. Việc tăng thêm quyền hạn cho Chánh thanh tra các cấp theo quy định của Luật Thanh tra 2010 đã nâng cao địa vị pháp lý của cơ quan thanh tra, xác định tính độc lập tương đối của các cơ quan thanh tra trong mối quan hệ với cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp, cụ thể là Chánh thanh tra các cấp quyết định việc thanh tra khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật và chịu trách nhiệm về quyết định của mình, ngoài ra Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở còn có quyền yêu cầu Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành cùng cấp tiến hành thanh tra trong phạm vi quản lý của cơ quan đó khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật; trường hợp Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành không đồng ý thì có quyền ra quyết định thanh tra, báo cáo và chịu trách nhiệm trước Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp về quyết định của mình.

Theo quy định tại Điều 53, 55 Luật Thanh tra 2010 quyền hạn nhiệm vụ của Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành, người ra quyết thanh tra chuyên ngành được gia tăng so với quy định trước đây, cụ thể là được quyền "Yêu cầu tổ chức tín dụng nơi đối tượng thanh tra có tài khoản phong tỏa tài sản đó để phục vụ cho việc thanh tra khi có căn cứ cho rằng đối tượng thanh tra tẩu tán tài sản".

Một điểm mới có tính đột phá nhằm đảm bảo tính nguyên tắc "Tuân theo pháp luật; đảm bảo chính xác khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời" trong hoạt động thanh tra, đó là theo quy định trước đây, người ra kết luận thanh tra có trách nhiệm công bố hoặc gửi kết luận thanh tra cho đối tượng thanh tra; nhưng theo quy định tại Điều 39 Luật Thanh tra 2010 kết luận thanh tra phải được công khai bằng nhiều hình thức (04 hình thức), người ra quyết định thanh tra phải công bố kết luận thanh tra tại cuộc họp cho đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan hoặc tổ chức họp báo và lựa chọn ít nhất một trong các hình thức, như: Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng; đưa lên trang thông tin điện tử của cơ quan thanh tra nhà nước, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, hoặc cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp; niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức là đối tượng thanh tra; cung cấp theo yêu cầu của cơ quan tổ chức, cá nhân có liên quan. Quy định trên buộc các cơ quan thanh tra, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành phải đổi mới lề lối làm việc, nâng cao chất lượng, trách nhiệm trong công tác thanh tra, đầu tư hiện đại hóa hoạt động thanh tra.

Như vậy, so với quy định của Luật Thanh tra năm 2004, Luật Thanh tra năm 2010 đã đạt được một bước tiến rất căn bản về nhận thức của hoạt động thanh tra làm cho hoạt động thanh tra nhất là thanh tra chuyên ngành trở nên chủ động, mạnh mẽ hơn, hiệu quả cao hơn, đáp ứng ngày một tốt hơn yêu cầu quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trên mọi mặt của đời sống xã hội đáp ứng kịp thời công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, đúng như Báo cáo số 389/BC-UBTVQH12 ngày 11/11/2010 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về giải trình, tiếp thu chỉnh lý dự thảo Luật Thanh tra mới đã khẳng định: “Đây là yếu tố quan trọng bảo đảm cho cơ quan thanh tra được chủ động và tự chịu trách nhiệm về các hoạt động, quyết định của mình, góp phần khắc phục được tính hình thức trong hoạt động của các cơ quan thanh tra hiện nay”. /.                                                                   

Thạc sĩ Vũ Hồng Thanh
Thanh tra viên Chính - Thanh tra Bộ Công an

 

dotuanh
Ý kiến bình luận
Họ và tên *
Email *
Nội dung bình luận *
Xác thực *

Bản quyền thuộc Tạp chí Thanh tra