Trong những năm qua, cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với tổ chức đảng, đảng viên đạt nhiều kết quả, góp phần xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh. Qua kiểm tra, giám sát, Ủy ban kiểm tra các cấp đã xử lý kỷ luật nghiêm khắc nhiều trường hợp cán bộ, đảng viên vi phạm, coi đây à một trong những giải pháp đột phá trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tuy nhiên, trước yêu cầu không ngừng đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, đòi hỏi việc giám sát phải mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào những lĩnh vực, địa bàn dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng, những nơi có vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong xã hội và kịp thời kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm…
Kiểm tra, giám sát là nhiệm vụ của toàn Đảng
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là toàn bộ hoạt động của các cấp ủy, tổ chức Đảng có thẩm quyền và ủy ban kiểm tra các cấp trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng và quy định của các cơ quan có thẩm quyền của Đảng và Nhà nước.
Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng, đồng thời, là bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng. Trên thực tế, Đảng không chỉ là đề ra chủ trương, đường lối, tổ chức thực hiện… mà còn phải kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, Cương lĩnh chính trị, chủ trương, chính sách và kiểm tra ngay cả các tổ chức tiến hành kiểm tra. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”.
Chính vì thế, mục đích của kiểm tra, giám sát là tìm ra ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận của Đảng và pháp luật của Nhà nước, qua đó góp phần nâng cao nặng lực lãnh đạo, sức chiến đẩu của Đảng, tăng cường sự đoàn kết thống nhất và bảo đảm thực hiện dân chủ trong Đảng, ngăn chặn, phòng ngừa sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và tránh các nguy cơ sai lầm về đường lối, quan liêu, xa dân của Đảng.
Trước đây theo Quy định số 30-QĐ/TW, ngày 26/7/2016 của Ban Chấp hành Trung ương về thi hành Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng (Quy định số 30) thì kiểm tra, giám sát là nhiệm vụ của toàn Đảng, được tiến hành đối với các tổ chức đảng và đảng viên. Theo đó, chủ thể kiểm tra, giám sát là: Chi bộ, đảng ủy bộ phận, ban thường vụ đảng ủy cơ sở, đảng ủy cơ sở; cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy từ cấp trên cơ sở trở lên; ủy ban kiểm tra; các ban đảng, văn phòng cấp ủy (gọi chung là các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy); ban cán sự đảng, đảng đoàn (chỉ là chủ thể kiểm tra). Còn đối tượng kiểm tra và giám sát là: Chi ủy, chi bộ, đảng ủy bộ phận, ban thường vụ đảng ủy cơ sở, đảng ủy cơ sở; cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, thường trực cấp ủy từ cấp trên cơ sở trở lên; ủy ban kiểm tra, các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy; ban cán sự đảng, đảng đoàn; đảng viên.
Về nội dung kiểm tra, giám sát của Ủy ban kiểm tra các cấp, theo Quy định số 30 gồm: kiểm tra đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên; kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên tắctổ chứccủa Đảng;kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng; giám sát cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ diện cấp ủy cùng cấp quản lý và tổ chức đảng cấp dưới về việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách củ aĐảng, nghị quyết của cấp ủy và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
Theo Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng, chủ thể kiểm tra là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ các cấp. Đối tượng kiểm tra bao gồm: Tổ chức đảng thuộc phạm vi quản lý, trước hết là tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp và đảng viên thuộc phạm vi quản lý, trước hết là cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp uỷ cấp mình quản lý, cán bộ giữ cương vị chủ chốt hoặc được giao các nhiệm vụ quan trọng.
Về nội dung kiểm tra, đối với tổ chức đảng, kiểm tra việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận, hướng dẫn của Đảng, pháp luật của Nhà nước; việc chấp hành các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ, quy chế làm việc, chế độ công tác, thực hiện dân chủ trong Đảng; việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hành tiết kiệm; phòng, chống tham nhũng, lãng phí; quản lý, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống của đảng viên; việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp; việc lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; việc tuyển dụng, tiếp nhận, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, luân chuyển, điều động, bổ nhiệm, nâng ngạch, bố trí, sử dụng, giới thiệu ứng cử, bầu cử, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, thực hiện chính sách cán bộ và việc lãnh đạo, chỉ đạo và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Còn đối với đảng viên, kiểm tra tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp uỷ viên và việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
Xử lý cán bộ, đảng viên tiêu cực, tham nhũng là giải pháp đột phá trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Trong những năm qua, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy các cấp đã chú trọng thường xuyên công tác kiểm tra chấp hành việc lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, do đó, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng nói chung cũng như chất lượng các cuộc kiểm tra, giám sát của các tổ chức cơ sở Đảng đã có những chuyển biến tích cực, nhận thức của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát ngày càng nâng lên, góp phần quan trọng vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng.
Tuy nhiên, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng cũng còn không ít tồn tại, hạn chế. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: Công tác kiểm tra ở một số nơi thiếu trọng tâm, trọng điểm; việc tự kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm của nhiều cấp ủy, tổ chức đảng vẫn là khâu yếu; còn nhiều tổ chức đảng và đảng viên có vi phạm nhưng chưa được phát hiện kịp thời; trong công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan tham mưu giúp việc các cấp chưa thường xuyên, có nơi, có lúc chưa thực chất, phạm vi, đối tượng còn hẹp; hiệu quả cảnh báo, phòng ngừa vi phạm còn hạn chế. Việc thi hành kỷ luật ở một số nơi chưa nghiêm, còn hiện tượng nể nang, ngại va chạm.
Đáng chú ý, những khuyết điểm, sai phạm nghiêm trọng của một số cấp ủy, cán bộ, đảng viên trong đó có cả cán bộ cao cấp được phát hiện trong thời gian gần đây không chỉ do nguyên nhân từ sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên mà còn cho thấy sự yếu kém trong công tác kiểm tra, giám sát ở một số tổ chức Đảng cơ sở. Những vụ, việc vi phạm đã diễn ra trong thời gian khá dài, song các tổ chức Đảng cơ sở thiếu kiểm tra, giám sát không phát hiện ra, chỉ đến khi sự việc vỡ lở, có đơn, thư tố cáo hoặc vi phạm pháp luật, các cơ quan chức năng của Đảng mới tiến hành kiểm tra và thi hành kỷ luật.
Mặc dù vậy, dư luận cũng đánh giá cao việc Trung ương Đảng đưa ra những hình thức kỷ luật nghiêm khắc với các đối tượng vi phạm, nhất là trong việc xử lý những vụ việc cán bộ, đảng viên tiêu cực, tham nhũng. Theo số liệu tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, trong giai đoạn 2012-2022, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 2700 tổ chức đảng, gần 168.000 đảng viên, trong đó có hơn 7390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng hoặc liên quan đến tham nhũng. Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kỷ luật hơn 170 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 33 Ủy viên và nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, hơn 50 sỹ quan cấp tướng. Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến giữa tháng 6/2022 đã kỷ luật 50 cán bộ diện Trung ương quản lý. Trong đó có 08 ủy viên và nguyên Ủy viên Trung ương, 20 sỹ quan cấp tướng. Việc xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cao cấp là một trong những giải pháp đột phá trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhằm làm trong sạch đội ngũ cán bộ, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; đồng thời khẳng định quyết tâm chính trị rất cao, hành động kiên quyết, kiên trì, không ngừng, không nghỉ của các cấp, các ngành, tạo động lực to lớn cho cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Giám sát phải mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng và kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Đẩy mạnh đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí”. Xuất phát từ những vấn đề đó, đồng thời, nhận định tình hình tham nhũng, vi phạm pháp luật, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ còn diễn biến phức tạp. Đáng chú ý là có sự cấu kết, bao che, tiếp tay của một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, rất tinh vi, phức tạp, nghiêm trọng, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành..., Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 34/KL-TW ngày 18/4/2022 về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030, trong đó đề ra một số nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm như sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ đối với công tác kiểm tra, giám sát. Theo đó, cấp uỷ các cấp đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng; thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Kịp thời phát hiện, biểu dương, nhân rộng những nhân tố mới, cách làm hay, điển hình tốt, phát huy sự năng động, sáng tạo của tổ chức đảng, đảng viên trong công tác kiểm tra, giám sát. Cấp uỷ, nhất là người đứng đầu thường xuyên làm việc với uỷ ban kiểm tra để nắm tình hình, kết quả thực hiện, kịp thời chỉ đạo, định hướng công tác kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra.
Hai là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Thực hiện kiểm tra, giám sát theo phương châm giám sát phải mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng; các lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh vi phạm; việc thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; kê khai tài sản, thu nhập,... Chủ động kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, tập trung vào những lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực, nhất là kiểm tra dấu hiệu suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong xã hội. Kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên không đủ năng lực, uy tín; việc miễn nhiệm, từ chức, trách nhiệm người đứng đầu khi cấp có thẩm quyền kết luận đã để xảy ra tham nhũng, tiêu cực ở cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý, phụ trách.
Uỷ ban kiểm tra cấp trên thường xuyên, kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn cấp uỷ, tổ chức đảng và uỷ ban kiểm tra cấp dưới trong công tác kiểm tra, giám sát, nhất là trong xử lý các vụ việc nghiêm trọng, phức tạp, dễ xảy ra vi phạm, các vụ việc về tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, "lợi ích nhóm.
Ba là, chủ động dự báo, kịp thời ban hành các quy định của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật. Kịp thời thể chế hoá chủ trương, quan điểm của Đảng; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để tạo sự đồng bộ, thống nhất trong thực hiện quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức; hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm, khuyết điểm; phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực. Đồng thời, xây dựng, hoàn thiện các quy định về cơ chế phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên; cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, việc thực thi quyền lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý; quy định các hành vi vi phạm, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; cơ chế về kiểm soát tài sản, thu nhập, quyền lực trong công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán…
Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra công minh, liêm chính; tổ chức bộ máy cơ quan uỷ ban kiểm tra các cấp đồng bộ, tinh gọn. Theo đó, tổ chức bộ máy cơ quan uỷ ban kiểm tra các cấp bảo đảm đồng bộ, thống nhất, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Phân định rõ tổ chức bộ máy, biên chế cán bộ của cơ quan uỷ ban kiểm tra các cấp; quy định cụ thể cơ cấu, số lượng uỷ viên uỷ ban kiểm tra kiêm nhiệm ở các cấp. Ban hành tiêu chí, tiêu chuẩn, khung năng lực cán bộ làm công tác kiểm tra theo hướng chuyên nghiệp. Thực hiện luân chuyển cán bộ kiểm tra các cấp để đào tạo, rèn luyện cán bộ. Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh chế độ, chính sách đối với cán bộ làm công tác kiểm tra các cấp./.