Sự cần thiết phải quy định về tố cáo tiếp và giải quyết tố cáo tiếp
Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2004 và năm 2005) không quy định về việc tố cáo tiếp. Đến Luật Tố cáo năm 2011, đã quy định quyền tố cáo tiếp là 1 trong 6 quyền của người tố cáo (điểm d Khoản 1 Điều 9) và Điều 27 của Luật quy định việc tố cáo tiếp, giải quyết vụ việc tố cáo tiếp. Quy định này nhằm bảo vệ quyền của người tố cáo được tiếp tục tố cáo khi cho rằng tố cáo của mình chưa được giải quyết đúng pháp luật, hành vi vi phạm chưa được ngăn chặn, người vi phạm chưa được xử lý hoặc xử lý chưa nghiêm minh, thậm chí thiếu trách nhiệm hoặc bao che cho người vi phạm. Vì vậy, người tố cáo sẽ được quyền tố cáo tiếp khi có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền không đúng pháp luật hoặc quá thời hạn quy định mà tố cáo không được giải quyết.
Trong thực tế, pháp luật về tố cáo quy định người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp có thẩm quyền xem xét lại việc giải quyết tố cáo của người đứng đầu cơ quan cấp dưới trực tiếp, nhưng chưa quy định cụ thể về trình tự thủ tục, nội dung hay căn cứ để xem xét lại kết quả giải quyết tố cáo. Do đó, không ít vụ việc tố cáo tiếp, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo tiếp căn cứ quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 20 Luật Tố cáo năm 2011 về việc không thụ lý giải quyết tố cáo trong trường hợp: “Tố cáo về vụ việc đã được giải quyết mà người tố cáo không cung cấp thông tin, tình tiết mới”… để từ chối việc thụ lý giải quyết tố cáo tiếp; hoặc có những trường hợp xem xét giải quyết tố cáo tiếp, nhưng người có thẩm quyền giải quyết tố cáo tiếp chưa xem xét, đánh giá một cách toàn diện về nội dung, chứng cứ và trình tự thủ tục giải quyết tố cáo trước đó theo một quy trình đầy đủ. Do vậy, cả việc tố cáo tiếp của công dân lẫn hoạt động giải quyết tố cáo tiếp của người có thẩm quyền đều gặp khó khăn, phần nào ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác giải quyết tố cáo tiếp nói riêng và quyền tố cáo của công dân nói chung.
Hội nghị tập huấn Luật Tố cáo của Thanh tra Hải Phòng năm 2018
Luật Tố cáo năm 2018 cũng tiếp tục quy định về việc tố cáo tiếp, đây là một trong bảy quyền của người tố cáo được quy định tại điểm d Khoản 1 Điều 9: “Tố cáo tiếp khi có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền không đúng pháp luật hoặc quá thời hạn quy định mà tố cáo chưa được giải quyết”. Tuy nhiên, để khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật Tố cáo 2011 về tố cáo tiếp, Luật Tố cáo năm 2018 đã quy định cụ thể hơn về thời hạn, trách nhiệm, trình tự thủ tục việc tố cáo tiếp và giải quyết lại vụ việc tố cáo. Các quy định này, ngoài tăng cường trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền trong giải quyết tố cáo, có vai trò hỗ trợ cho người tố cáo nắm được các căn cứ liên quan đến việc tố cáo tiếp để cân nhắc khi tiếp tục tố cáo, tránh tình trạng do hiểu biết chưa đúng hoặc nắm thông tin về vụ việc không đầy đủ mà tố cáo tràn lan, vượt cấp gây khó khăn cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc tiếp nhận và giải quyết tố cáo.
Quy định của pháp luật về tố cáo tiếp và giải quyết tố cáo tiếp
Theo quy định của Luật Tố cáo 2018, việc giải quyết tố cáo tiếp được thực hiện khi có một trong các căn cứ sau:
Một là, quá thời hạn theo quy định của pháp luật mà vụ việc tố cáo chưa được giải quyết. Luật Tố cáo 2018, tại Điều 30 quy định: Thời hạn giải quyết tố cáo là 30 ngày, kể từ ngày thụ lý tố cáo. Đối với vụ việc phức tạp, có thể gia hạn giải quyết tố cáo một lần, nhưng không quá 30 ngày. Đối với vụ việc đặc biệt phức tạp, có thể gia hạn giải quyết tố cáo 2 lần, mỗi lần không quá 30 ngày. Như vậy, quá thời hạn quy định trên mà vụ việc tố cáo chưa được giải quyết, người tố cáo có quyền tố cáo tiếp lên Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người giải quyết tố cáo.
Hai là, khi người tố cáo có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo là không đúng quy định của pháp luật. Khi nhận được tố cáo tiếp, người đứng đầu của cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của người đã giải quyết tố cáo phải xem xét hồ sơ giải quyết vụ việc tố cáo trước đó. Nếu như việc giải quyết tố cáo trước đó là đúng quy định của pháp luật thì sẽ không giải quyết lại vụ việc tố cáo; trường hợp việc giải quyết tố cáo trước đó không đúng thẩm quyền thì tiến hành giải quyết tố cáo theo thẩm quyền hoặc chuyển tố cáo đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tố cáo; trường hợp có căn cứ để giải quyết lại vụ việc tố cáo thì tiến hành giải quyết lại tố cáo.
Việc giải quyết lại vụ việc tố cáo chỉ được tiến hành khi việc giải quyết tố cáo trước đó có dấu hiệu vi phạm pháp luật, làm sai lệch bản chất vụ việc hoặc bỏ lọt thông tin tài liệu trong khi giải quyết tố cáo. Theo quy định tại Khoản 3, Điều 37 Luật Tố cáo 2018, các căn cứ của việc giải quyết lại vụ việc tố cáo bao gồm: Kết quả xác minh hoặc kết luận nội dung tố cáo thiếu chính xác, hoặc thiếu khách quan; bỏ sót, bỏ lọt thông tin, tài liệu chứng cứ quan trọng trong khi xác minh hoặc kết luận nội dung tố cáo; áp dụng không đúng pháp luật trong quá trình xác minh hoặc kết luận nội dung tố cáo.
Thẩm quyền giải quyết tố cáo tiếp được xác định theo các căn cứ tố cáo tiếp, cụ thể:
Thứ nhất, trong trường hợp việc giải quyết tố cáo của người có thẩm quyền giải quyết tố cáo không đúng với quy định của pháp luật, người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp giải quyết lại vụ việc tố cáo. Như vậy, để đảm bảo vụ việc giải quyết tố cáo được khách quan thì phải là người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của người đã giải quyết tố cáo.
Trong hệ thống hành chính Nhà nước, thẩm quyền giải quyết tố cáo căn cứ vào nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước và nguyên tắc quản lý cán bộ công chức hiện nay ở nước ta. Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền giải quyết lại tố cáo đối với tố cáo do Bộ trưởng, người đứng đầu cơ quan ngang bộ, đã giải quyết. Bộ trưởng, người đứng đầu cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền giải quyết lại tố cáo do Tổng cục trưởng, Cục trưởng và tương đương thuộc Bộ, cơ quan ngang bộ đã giải quyết; đối với tố cáo do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết có nội dung thuộc thẩm quyền quản lý Nhà nước của bộ ngành mình. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết lại tố cáo đối với tố cáo do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết lại tố cáo đối với tố cáo do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã đã giải quyết.
Thứ hai, đối với trường hợp việc giải quyết tố cáo trước đó là không đúng thẩm quyền, tiến hành giải quyết theo thẩm quyền hoặc chuyển tố cáo đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tố cáo.
Thứ ba, trong trường hợp quá thời hạn quy định mà tố cáo chưa được giải quyết thì Thủ trưởng cấp trên yêu cầu cấp dưới phải giải quyết. Cụ thể, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được tố cáo tiếp, người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp có văn bản yêu cầu người giải quyết tố cáo báo cáo về quá trình giải quyết tố cáo. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp, người giải quyết tố cáo phải gửi báo cáo theo quy định, tiếp tục giải quyết tố cáo theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp và báo cáo kết quả giải quyết. Tuy nhiên, Luật Tố cáo 2018 có quy định mới về thẩm quyền giải quyết tố cáo trong trường hợp quá thời hạn quy định mà tố cáo vẫn chưa được giải quyết, đó là trường hợp có căn cứ cho rằng, việc giải quyết tố cáo vi phạm pháp luật nghiêm trọng, có dấu hiệu không khách quan thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp giải quyết vụ việc tố cáo. Cụ thể, khi có căn cứ xác định việc giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ chức cấp dưới có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp phải giải quyết tố cáo trong những trường hợp: Có vi phạm về trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo dẫn đến kết luận tố cáo không chính xác, khách quan hoặc làm sai lệch hồ sơ vụ việc và có một trong các căn cứ: Khi kết quả xác minh hoặc kết luận nội dung tố cáo thiếu chính xác hoặc thiếu khách quan; bỏ sót, bỏ lọt thông tin, tài liệu, chứng cứ quan trọng trong khi xác minh hoặc kết luận nội dung tố cáo; áp dụng không đúng pháp luật trong quá trình xác minh hoặc kết luận nội dung tố cáo.
Khi có dấu hiệu không khách quan trong việc giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ chức cấp dưới thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp phải giải quyết tố cáo trong những trường hợp sau đây: Người bị tố cáo là vợ hoặc chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, bố mẹ bên vợ hoặc bên chồng, con đẻ, con nuôi, con rể, con dâu, anh ruột, chị ruột, em ruột của người được giao nhiệm vụ xác minh nội dung tố cáo, của người giải quyết tố cáo; nội dung tố cáo có liên quan trực tiếp đến vợ hoặc chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, bố mẹ bên vợ hoặc bên chồng, con đẻ, con nuôi, con rể, con dâu, anh ruột, chị ruột, em ruột của người được giao nhiệm vụ xác minh nội dung tố cáo, của người giải quyết tố cáo; người được giao nhiệm vụ xác minh nội dung tố cáo, người giải quyết tố cáo có lợi ích liên quan trực tiếp với người bị tố cáo.
Nhìn chung, Luật Tố cáo 2018 đã quy định rõ về tố cáo tiếp và thẩm quyền giải quyết đối với các vụ việc tố cáo tiếp, xác định các trường hợp cấp trên giải quyết vụ việc tố cáo khi nào, giải quyết lại vụ việc tố cáo khi nào, khi nào cấp dưới vẫn phải giải quyết vụ việc tố cáo. Việc quy định rõ thẩm quyền giải quyết đối với vụ việc tố cáo tiếp trong từng trường hợp cụ thể sẽ giúp các cơ quan xác định thẩm quyền trong quá trình xử lý đối với đơn tố cáo tiếp. Căn cứ để giải quyết lại vụ việc tố cáo tiếp được quy định cụ thể hơn. Qua đó, giúp cá nhân thực hiện quyền tố cáo của mình một cách thuận lợi hơn, bên cạnh đó các cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật khi giải quyết vụ việc tố cáo tiếp.
Một số đề xuất, kiến nghị
Để đảm bảo quyền tố cáo tiếp của công dân, đảm bảo hiệu quả công tác giải quyết tố cáo tiếp của người có thẩm quyền, qua đó đảm bảo tính khả thi của các quy định về giải quyết tố cáo tiếp. Trong quá trình nghiên cứu, tổ chức thực hiện và hoàn thiện pháp luật về tố cáo nói chung và tố cáo tiếp nói riêng, cần lưu ý một số vấn đề sau:
Về thực hiện quyền tố cáo tiếp
Hiện nay, Luật Tố cáo 2018 chỉ quy định cho cá nhân có quyền tố cáo tiếp khi có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo là không đúng pháp luật hoặc quá thời hạn quy định mà tố cáo không được giải quyết. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa có hướng dẫn cụ thể cá nhân thực hiện quyền tố cáo tiếp như thế nào. Do đó, cần có những quy định cụ thể hơn, ví dụ như đơn tố cáo tiếp phải có những nội dung gì, những tài liệu, bằng chứng kèm theo đơn tố cáo tiếp (như kết luận nội dung tố cáo của người có thẩm quyền giải quyết tố cáo, những căn cứ thể hiện việc giải quyết tố cáo không đúng pháp luật, hoặc chứng cứ thể hiện việc chưa giải quyết xong vụ việc tố cáo mặc dù đã quá thời hạn giải quyết...)
Về trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo tiếp
Pháp luật tố cáo hiện hành không có sự khác nhau giữa trình tự thủ tục giải quyết tố cáo tiếp, với trình tự thủ tục giải quyết tố cáo thông thường. Trong khi đó, giải quyết tố cáo và giải quyết tố cáo tiếp có những điểm khác nhau rất căn bản về thảm quyền giải quyết, căn cứ pháp lý để giải quyết… do vậy, cần có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo tiếp riêng. Đặc biệt, trong trường hợp giải quyết lại vụ việc tố cáo, thẩm quyền giải quyết vụ việc là thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người đã giải quyết tố cáo. Do đó, cần có quy định cụ thể về việc Thủ trưởng cấp trên giao vụ việc xác minh cho cơ quan, tổ chức, cá nhân nào, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao xác minh vụ việc tố cáo tiếp, trách nhiệm chuyển hồ sơ vụ việc giải quyết tố cáo của người đã giải quyết tố cáo, trách nhiệm phối hợp của các cơ quan có liên quan trong việc cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ... Tất cả các vấn đề đó cần được quy định cụ thể, làm cơ sở cho việc tổ chức thực hiện công tác này.
Về chế tài xử lý đối với người tố cáo tiếp cố tình tố cáo sai sự thật, tố cáo nhiều lần và chế tài xử lý đối với các vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết tố cáo tiếp
Hiện nay, trên thực tế, một số địa phương, cơ quan, tổ chức, đơn vị vẫn còn tình trạng mặc dù vụ việc tố cáo đã được cơ quan có thẩm quyền giải quyết đúng pháp luật, nhưng người tố cáo vẫn cố tình tố cáo tiếp, tố cáo tràn lan, nhiều lần, sai sự thật, làm ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác. Tuy nhiên, cá nhân tố cáo nhiều lần, sai sự thật thì chưa có chế tài xử lý hành chính, do vậy, còn khó khăn cho các cơ quan hành chính trong việc xử lý đối với các cá nhân thực hiện hành vi đó. Do vậy, cần bổ sung các chế tài xử lý hành chính đối với những cá nhân thực hiện hành vi này, nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, hạn chế tình trạng tố cáo tràn lan, vượt cấp, nhiều lần, sai sự thật, đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh đó, các hành vi vi phạm khác cũng cần bổ sung các quy định xác định chế tài xử lý như: Xử lý đối với các hành vi cố tình không xử lý đơn tố cáo tiếp, cố ý bỏ qua các bằng chứng, bỏ lọt thông tin, tài liệu, làm mất hoặc làm sai lệch hồ sơ, tài liệu trong quá trình xác minh nội dung vụ việc tố cáo, bao che cho người bị tố cáo.
Trên đây là một số vấn đề từ thực trạng quy định của pháp luật đến thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về tố cáo tiếp. Trên cơ sở các đề xuất kiến nghị từ góc độ của những người làm thực tiễn, pháp luật về tố cáo nói chung và tố cáo tiếp nói riêng cần sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu từ thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết tố cáo trong thời gian tới./.
TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
Trường Cán bộ Thanh tra, TTCP