<!--[if gte mso 9]><xml>
<w:WordDocument>
<w:View>Normal</w:View>
<w:Zoom>0</w:Zoom>
<w:PunctuationKerning/>
<w:ValidateAgainstSchemas/>
<w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid>
<w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent>
<w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText>
<w:Compatibility>
<w:BreakWrappedTables/>
<w:SnapToGridInCell/>
<w:WrapTextWithPunct/>
<w:UseAsianBreakRules/>
<w:DontGrowAutofit/>
</w:Compatibility>
<w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel>
</w:WordDocument>
</xml><![endif]-->
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial" lang="EN-US">Cụ
thể hóa quy định của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung
năm 2007 và 2012), Nghị định số 107/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 quy
định xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức khi để xảy ra tham
nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách đã có những quy
định khá cụ thể về xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
khi để xảy ra tham nhũng như: mức độ của vụ việc tham nhũng, nguyên tắc, hình
thức xử lý, thẩm quyền, quy trình, thủ tục xử lý. Đây là cơ sở pháp lý vững
chắc tạo điều kiện cho giải pháp xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra
tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị được triển khai thực hiện. </span></p>
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial" lang="EN-US">Tuy
nhiên, Nghị định 107/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 được ban hành trên cơ
sở nhiều văn bản pháp luật đến nay đã hết hiệu lực thi hành, để phù hợp với quy
định trong các văn bản pháp luật hiện hành và điều chỉnh một số nội dung cần
thiết, Nghị định số 211/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 107/2006/NĐ-CP
đã được ban hành ngày 19 tháng 12 năm 2013 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày
10 tháng 2 năm 2014.</span></p>
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial" lang="EN-US">Khi
nghiên cứu nội dung của những quy định được sửa đổi, bổ sung, có thể nhận thấy
việc sửa đổi, bổ sung chủ yếu là thay thế những đoạn dẫn chiếu tới các văn bản
hết hiệu lực thi hành bằng việc dẫn chiếu theo quy định của pháp luật hiện
hành. Nhiều nội dung quy định bất hợp lý, thiếu tính khả thi chưa được xem xét
và sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Những thiếu sót trong quy định của pháp luật
là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc xử lý trách nhiệm của người đứng
đầu khi để xảy ra tham nhũng trong thực tế chưa đạt yêu cầu. Các báo cáo tổng
kết công tác phòng chống tham nhũng của Chính phủ cũng thừa nhận thực tế này. </span></p>
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial" lang="EN-US"><div style="text-align: center;"><img alt="" src="http://file.thanhtravietnam.vn/data/old_img/Portals/0/NEWS_IMAGES/anhdt/2014_8/161325.jpg" width="500px"></div><div style="color: #666666;font-size: 11px;line-height: 18px;text-align: center;font-style:italic;">Ảnh minh họa</div>Chính
vì vậy, tác giả xin đưa ra một số vấn đề cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung trong
quy định của pháp luật về xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra tham
nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách như sau:</span></p>
<p class="MsoNormal"><i><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial" lang="EN-US">Thứ
nhất, bổ sung căn cứ xác định hình thức xử lý trách nhiệm đối với người đứng
đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra hành vi tham nhũng:</span></i></p>
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial" lang="EN-US">Điều
55 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định: Trong kết luận thanh tra, kết luận
kiểm toán, kết luận điều tra vụ việc, vụ án tham nhũng phải nêu rõ trách nhiệm
của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra hành vi tham nhũng theo
các mức độ sau đây: (i) Yếu kém về năng lực quản lý; (ii) Thiếu trách nhiệm
trong quản lý; (iii) Bao che cho người có hành vi tham nhũng. Kết luận, báo cáo
phải được gửi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền quản lý cán bộ. Với
ba mức độ trách nhiệm được nêu ra ở đây, đáng lẽ chúng phải trở thành một
trong những căn cứ để xác định hình thức xử lý trách nhiệm đối với người đứng
đầu hoặc có tác dụng nào đó trong việc xử lý trách nhiệm của người đứng đầu.
Tuy nhiên, nghiên cứu các quy định cụ thể của Nghị định 107/2006/NĐ-CP (sửa
đổi, bổ sung năm 2013) tại Điều 4, 6, 7, 8, 9, 10 thì căn cứ để xác định hình
thức xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu lại dựa trên việc chịu trách
nhiệm trực tiếp hay liên đới (căn cứ để xác định việc chịu trách nhiệm trực
tiếp hoặc trách nhiệm liên đới dựa trên sự phân công, phân cấp quản lý) và mức
độ của các vụ, việc tham nhũng xảy ra (vụ, việc tham nhũng ít nghiêm trọng,
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng). Như vậy, một câu hỏi
được đặt ra ở đây là khi bản kết luận thanh tra, kiểm toán, điều tra vụ việc,
vụ án tham nhũng xác định đúng mức độ trách nhiệm của người đứng đầu ở một
trong ba mức độ trách nhiệm theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng (yếu
kém về năng lực quản lý; thiếu trách nhiệm trong quản lý; bao che cho người có
hành vi tham nhũng) thì nó sẽ dùng để phục vụ cho mục đích gì nếu không phải là
để xác định hình thức xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu? </span></p>
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial" lang="EN-US">Hơn
nữa, nếu chỉ căn cứ vào trách nhiệm trực tiếp hay liên đới và mức độ của vụ,
việc tham nhũng để xác định hình thức xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu
theo quy định của Nghị định 107/2006/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung năm 2013) là không
hợp lý. Giả sử hai cơ quan đều xảy ra vụ, việc tham nhũng với mức độ nghiêm
trọng, hai người đứng đầu đều phải chịu trách nhiệm trực tiếp về việc để xảy ra
hành vi đó (vì là người trực tiếp quản lý, giao nhiệm vụ đối với người có hành
vi tham nhũng) thì theo quy định của Nghị định 107/2006/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung
năm 2013) hình thức xử lý trách nhiệm áp dụng sẽ giống nhau, điều này là bất
hợp lý vì để xác định hình thức xử lý trách nhiệm phù hợp nhất còn cần phải căn
cứ xem người đứng đầu để xảy ra tham nhũng trong đơn vị do cố ý bao che hay do
yếu kém về năng lực, thiếu trách nhiệm trong quản lý… Về mặt lý thuyết, để đưa
ra chế tài xử lý đối với tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật cần phải dựa trên
hai căn cứ là lỗi và hậu quả gây ra. Xét trong trường hợp này thì căn cứ xác định
hình thức xử lý trách nhiệm mới chỉ về mặt hậu quả gây ra, như vậy là chưa chặt
chẽ. </span></p>
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial" lang="EN-US">Vì
vậy, quy định về hình thức xử lý trách nhiệm người đứng đầu cần được nghiên
cứu, hoàn thiện theo hướng: bên cạnh việc cụ thể hóa hình thức xử lý trách
nhiệm của người đứng đầu theo mức độ của vụ việc tham nhũng xảy ra trong cơ
quan, tổ chức, đơn vị như quy định hiện nay (khiển trách khi để xảy ra vụ việc
tham nhũng nghiêm trọng hoặc nhiều vụ, việc tham nhũng ít nghiêm trọng; cảnh
cáo khi để xảy ra vụ, việc tham nhũng rất nghiêm trọng hoặc nhiều vụ, việc tham
nhũng nghiêm trọng, cách chức khi để xảy ra vụ, việc tham nhũng đặc biệt nghiêm
trọng hoặc nhiều vụ, việc tham nhũng rất nghiêm trọng), đồng thời phải bổ sung
quy định để cụ thể hóa hình thức xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu theo
mức độ trách nhiệm của họ khi để xảy ra vụ việc tham nhũng (do yếu kém về năng
lực quản lý, do thiếu trách nhiệm hay do bao che để vụ việc xảy ra thì tương
ứng với từng hình thức xử lý nào? – đây chính là căn cứ về mặt lỗi).</span></p>
<p class="MsoNormal"><i><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial" lang="EN-US">Thứ
hai, xem xét lại và quy định cụ thể hơn về những trường hợp được loại trừ trách
nhiệm hoặc giảm nhẹ một mức kỷ luật khi để xảy ra hành vi tham nhũng:</span></i></p>
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial" lang="EN-US">Theo
quy định của Nghị định 107/2006/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung năm 2013), người đứng
đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị được loại trừ trách
nhiệm trong trường hợp họ không thể biết hoặc đã áp dụng các biện pháp cần
thiết để phòng ngừa, ngăn chặn hành vi tham nhũng...(Khoản 1, Điều 11); người
đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra tham
nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách cũng được giảm
nhẹ một mức kỷ luật nếu đã thực hiện các biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn,
khắc phục hậu quả của hành vi tham nhũng... (điểm b, khoản 3, Điều 11). Câu
hỏi đặt ra ở đây là căn cứ vào đâu để xác định người đứng đầu không thể
biết hay đã áp dụng các biện pháp cần thiết để phòng ngừa, ngăn chặn và khắc
phục hậu quả của hành vi tham nhũng? người đứng đầu áp dụng các biện pháp ngăn
chặn hành vi tham nhũng ở mức độ nào thì được loại trừ trách nhiệm, mức độ nào
thì được giảm nhẹ mức kỷ luật?... Việc áp dụng quy định này trên thực tế
gặp phải nhiều khó khăn, lúng túng và không thống nhất giữa các cơ
quan, tổ chức, đợn vị, có thể trở thành kẽ hở để cơ quan có thẩm quyền lợi
dụng bao che, loại trừ trách nhiệm hoặc giảm nhẹ hình thức xử lý cho người đứng
đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra hành vi tham nhũng.</span></p>
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial" lang="EN-US">Vì
vậy, cần xem xét, bổ sung quy định những trường hợp thế nào thì được coi là
không thể biết (đây là điểm cần phải xem xét kỹ lưỡng, quy định cụ thể và rất
chặt chẽ để tránh lợi dụng loại trừ trách nhiệm) hoặc đã áp dụng các biện pháp
cần thiết để phòng ngừa, ngăn chặn hành vi tham nhũng, các biện pháp cần
thiết nhằm ngăn chặn, khắc phục hậu quả của hành vi tham nhũng (cần
quy định rõ, ví dụ như ban hành quy chế quản lý rõ ràng, Quy chế làm việc, Quy
chế chi tiêu nội bộ; thực hiện nghiêm túc công khai, minh bạch trong mọi hoạt
động của cơ quan, đơn vị; quy định rõ trách nhiệm của từng cán bộ, công chức,
viên chức...).</span></p>
<p class="MsoNormal"><i><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial" lang="EN-US">Thứ
ba, bổ sung quy định liên quan đến trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra tham
nhũng:</span></i></p>
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial" lang="EN-US">Điều
13 Nghị định số 107/2006/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung năm 2013) quy định:
"Trong thời hạn 30 ngày làm việc, kể từ ngày có kết luận, báo cáo chính
thức của cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại Khoản 4 Điều 55 Luật phòng,
chống tham nhũng về vụ việc, vụ án tham nhũng hoặc từ ngày bản án về tham nhũng
có hiệu lực pháp luật, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực
tiếp có trách nhiệm xem xét xử lý kỷ luật hoặc báo cáo để cấp có thẩm quyền xem
xét xử lý kỷ luật đối với người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan,
tổ chức, đơn vị có trách nhiệm trực tiếp hoặc trách nhiệm liên đới để xảy ra
tham nhũng".</span></p>
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial" lang="EN-US">Tuy
nhiên, trong Nghị định chưa quy định về trách nhiệm đối với cơ quan, tổ chức,
đơn vị cấp trên trực tiếp trong trường hợp biết nhưng không xem xét hoặc chậm
chễ trong việc xem xét xử lý kỷ luật đối với người đứng đầu, cấp phó của người
đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp dưới. Vì vậy, cần nghiên cứu, bổ sung quy
định để làm rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên
trực tiếp trong việc xem xét xử lý kỷ luật đối với người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị cấp dưới khi để xảy ra tham nhũng; bổ sung quy định chế tài xử lý
đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp trong trường
hợp biết nhưng không xem xét xử lý kỷ luật hoặc cố tình kéo dài thời gian so
với quy định khi xử lý trách nhiệm người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu
cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp dưới. Có như vậy, việc xử lý trách nhiệm người
đứng đầu khi để xảy ra hành vi tham nhũng mới được tiến hành kịp thời và nghiêm
minh hơn.</span></p>
<p class="MsoNormal"><i><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial" lang="EN-US">Thứ
tư, cụ thể hóa nguyên tắc xác định người đứng đầu phải chịu trách nhiệm khi xảy
ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị: </span></i></p>
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial" lang="EN-US">Điều
54, Luật phòng, chống tham nhũng chỉ đưa ra những quy định mang tính chung nhất
để xác định người đứng đầu phải chịu trách nhiệm trực tiếp hay liên đới khi để
xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Về nguyên tắc thì
người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị đuợc xác định trong các văn bản quy
định chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị đó. Tuy nhiên, trong từng
trường hợp khi cơ quan, tổ chức, đơn vị xảy ra tham nhũng thì việc xác định
trách nhiệm của từng vị trí quản lý đến đâu, người đứng đầu ở cấp độ nào phải
chịu trách nhiệm không phải là điều dễ dàng và chưa thống nhất. Bởi vậy, trong
Nghị định quy định về xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra tham
nhũng, nguyên tắc xác định người đứng đầu phải chịu trách nhiệm khi để xảy ra
tham nhũng cần được nghiên cứu, cụ thể hóa hơn nữa trên cơ sở quy định của Luật
Phòng, chống tham nhũng. </span></p>
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial" lang="EN-US">Ngoài
ra, cần quy định rõ hơn trách nhiệm của người đứng đầu trong thực hiện các biện
pháp phòng, chống tham nhũng làm cơ sở cho việc xử lý trách nhiệm người đứng
đầu khi để xảy ra hành vi tham nhũng:</span></p>
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial" lang="EN-US">Hiện
nay, Luật phòng, chống tham nhũng mới chỉ dừng lại ở những quy định chung như:
Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm chỉ đạo việc thực hiện các quy định; gương mẫu, liêm khiết,
định kỳ kiểm điểm việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ và trách nhiệm của mình
trong việc phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý người có hành vi
tham nhũng; chịu trách nhiệm khi để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ
chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách (Khoản 2 Điều 5) và Áp dụng quy định
của Luật phòng, chống tham nhũng và các quy định khác của pháp luật có liên
quan để tổ chức phòng, chống tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình
quản lý; chịu trách nhiệm trước cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp về
việc phòng, chống tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý
(Điều 72). </span></p>
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial" lang="EN-US">Như
vậy, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác phòng, chống tham nhũng chưa
được quy định cụ thể, rõ ràng, cần phải cụ thể hóa hơn nữa trong các văn bản
hướng dẫn thi hành Luật phòng, chống tham nhũng để làm cơ sở buộc người đứng
đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thực hiện và làm căn cứ để xác định trách
nhiệm một cách rõ ràng khi không thực hiện, thực hiện không đúng để xảy ra tham
nhũng. Cần phải phân định rõ trách nhiệm tập thể và trách nhiệm cá nhân trong
việc thực hiện các biện pháp phòng, chống tham nhũng. Cần quy định rõ theo
hướng liệt kê trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc
thực hiện các biện pháp phòng chống tham nhũng. Đây vừa là căn cứ pháp lý để tổ
chức thực hiện nhưng đồng thời là cơ sở để xác định trách nhiệm pháp lý của thủ
trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phòng, chống tham nhũng.</span></p>
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial" lang="EN-US">Tóm
lại, quy định việc xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng
phần nào đã thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện đồng
bộ các biện pháp phòng ngừa tham nhũng. Thời gian qua, tuy còn nhiều vướng mắc
trong tổ chức thực hiện xuất phát từ những điểm bất hợp lý, thiếu cụ thể, rõ
ràng trong quy định của pháp luật nhưng việc thực hiện giải pháp này bước đầu
đã tạo ra tính răn đe nhất định, góp phần vào công tác phòng ngừa tham nhũng
nói chung. Trong quá trình hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này,
các cơ quan có thẩm quyền cần tiếp tục xem xét, nghiên cứu kỹ lưỡng các thiếu
sót, vướng mắc đặt ra để kịp thời sửa đổi, bổ sung, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả
thực sự của việc triển khai thực hiện giải pháp này trong thực tế./.</span></p>
<p style="text-align: right;" class="MsoNormal"><b><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial" lang="EN-US">Nguyễn
Thị Thu Nga</span></b></p><b>
</b><p style="text-align: right;" class="MsoNormal"><b><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial" lang="EN-US">Viện
Khoa học thanh tra</span></b></p>
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial" lang="EN-US"> </span></p>
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial" lang="EN-US"> </span></p>
<!--[if gte mso 9]><xml>
<w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156">
<w:LsdException Locked="false" Name="Default Paragraph Font"/>
</w:LatentStyles>
</xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]>
<style>
/* Style Definitions */
table.MsoNormalTable
{mso-style-name:"Table Normal";
mso-tstyle-rowband-size:0;
mso-tstyle-colband-size:0;
mso-style-noshow:yes;
mso-style-parent:"";
mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;
mso-para-margin:0cm;
mso-para-margin-bottom:.0001pt;
mso-pagination:widow-orphan;
font-size:10.0pt;
font-family:"Times New Roman";
mso-ansi-language:#0400;
mso-fareast-language:#0400;
mso-bidi-language:#0400;}
</style>
<![endif]-->