Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng (PCTN) năm 2018 thì “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”.
1. Thực trạng xử lý hành vi vi phạm pháp luật về PCTN
1.1. Các quy định của pháp luật về xử lý hành vi vi phạm pháp luật về PCTN
Những quy định về xử lý tham nhũng được ghi nhận ở nhiều văn bản pháp luật, có thể kể đến như: Luật PCTN năm 2018; Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung một số điều năm 2017); Luật Cán bộ, công chức năm 2008; Luật Viên chức năm 2010...
Luật PCTN năm 2018 đã dành cả Chương IX quy định cụ thể nội dung xử lý tham nhũng và hành vi khác vi phạm pháp luật về PCTN. Tại Khoản 1 Điều 92 quy định: “Người có hành vi tham nhũng giữ bất kì chức vụ, vị trí công tác nào đều phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật, kể cả người đã nghỉ hưu, thôi việc, chuyển công tác”.
Bên cạnh đó, Luật này còn quy định về xử lý các hành vi vi phạm quy định về PCTN bao gồm: Về công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; về định mức, tiêu chuẩn, chế độ; về quy tắc ứng xử; về xung đột lợi ích; về chuyển đổi vị trí công tác của người có chức vụ, quyền hạn; về nghĩa vụ báo cáo về hành vi tham nhũng và xử lý báo cáo về hành vi tham nhũng; về nghĩa vụ trung thực trong kê khai tài sản, thu nhập, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm; về thời hạn kê khai tài sản, thu nhập hoặc vi phạm quy định khác về kiểm soát tài sản, thu nhập.
Người có hành vi vi phạm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Người có hành vi vi phạm bị xử lý kỷ luật nếu là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị thì bị xem xét áp dụng tăng hình thức kỷ luật. Người có hành vi vi phạm bị xử lý kỷ luật nếu là thành viên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội thì còn bị xử lý theo điều lệ, quy chế, quy định của tổ chức đó.
Để bảo đảm thi hành Luật PCTN năm 2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 59/2019/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01/7/2019 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật PCTN năm 2018. Trong đó, Chương VI của Nghị định 59 quy định về việc tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển sang vị trí công tác khác đối với người có chức vụ, quyền hạn có hành vi vi phạm liên quan đến tham nhũng và Chương X quy định về xử lý trách nhiệm của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng và xử lý hành vi vi phạm pháp luật về phòng chống tham.
Theo quy định tại điều 78 của Nghị định 59, trường hợp người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra vụ việc tham nhũng ít nghiêm trọng sẽ bị áp dụng hình thức kỷ luật khiển trách. Trường hợp người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra vụ việc tham nhũng nghiêm trọng hoặc nhiều vụ việc tham nhũng ít nghiêm trọng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách sẽ bị áp dụng hình thức kỷ luật cảnh cáo. Đối với trường hợp người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra vụ việc tham nhũng rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc nhiều vụ việc tham nhũng nghiêm trọng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách sẽ bị áp dụng hình thức kỷ luật cách chức.
Quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc phòng ngừa, đấu tranh và xử lý tham nhũng, một mặt yêu cầu người đứng đầu phải có biện pháp quản lý, kiểm soát không để tham nhũng xảy ra; mặt khác, nếu có tham nhũng, phải có trách nhiệm xử lý, báo cáo với cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về tham nhũng. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị sẽ phải chịu trách nhiệm kỷ luật hoặc trách nhiệm hình sự khi để xảy ra tham nhũng. Đây là trách nhiệm liên quan đến tham nhũng của người đứng đầu.
Ngoài ra, Nghị định 59 cũng quy định cụ thể việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về tham nhũng liên quan đến các nội dung: Xử lý vi phạm trong việc thực hiện công khai, minh bạch (Điều 81); Xử lý vi phạm quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn (Điều 82); Xử lý vi phạm quy tắc ứng xử của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị (Điều 83); Xử lý vi phạm quy định về xung đột lợi ích (Điều 84); Xử lý vi phạm quy định về báo cáo, xử lý báo cáo về hành vi tham nhũng (Điều 85); Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi khác vi phạm pháp luật về PCTN trong doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước (Điều 87).
Theo quy định tại Điều 95 Luật PCTN năm 2018, đối với doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước là công ty đại chúng, tổ chức tín dụng và tổ chức xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có huy động các khoản đóng góp của Nhân dân để hoạt động từ thiện vi phạm quy định tại Điều 80 của Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà Doanh nghiệp, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức bị xử lý theo điều lệ, quy chế, quy định của doanh nghiệp, tổ chức đó. Trường hợp doanh nghiệp, tổ chức không thực hiện các biện pháp xử lý đối với người giữ chức danh, chức vụ quản lý thì bị cơ quan có thẩm quyền thanh tra công bố công khai về tên, địa chỉ và hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.
Đối tượng bị xử lý kỷ luật, xử lý hình sự được quy định tại Điều 92 Luật PCTN năm 2018 và các văn bản pháp luật khác gồm người có hành vi tham nhũng là đối tượng chính của chế tài hình sự và chế tài kỷ luật, là người đã có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để trục lợi; Người không báo cáo, tố giác khi biết hành vi tham nhũng.
Trong số các đối lượng nêu trên, người có hành vi tham nhũng là đối tượng trọng yếu nhất của việc xử lý kỷ luật và xử lý hình sự. Vì vậy, pháp luật quy định tương đối đầy đủ hệ thống chế tài áp dụng cho người có hành vi tham nhũng tùy theo tính chất, mức độ vi phạm của họ ở mức độ khái quát nhất có thể phân chia thành hai loại chế tài: Chế tài kỷ luật áp dụng cho người có hành vi tham nhũng ở mức độ ít nguy hiểm cho xã hội, còn chế tài hình sự được áp dụng cho người có hành vi tham nhũng gây nguy hiểm cao cho xã hội bị coi là tội phạm.
Trách nhiệm kỷ luật (chế tài kỷ luật): Trách nhiệm kỷ luật là việc áp dụng những hậu quả bất lợi đối với cán bộ, công chức, viên chức có hành vi tham nhũng mà theo quy định của pháp luật phải xử lý bằng chế tài kỷ luật. Theo quy định của pháp luật thì chế tài kỷ luật có các hình thức sau tương ứng với mức đội vi phạm của hành vi tham nhũng: Công chức vi phạm quy định của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và các quy định khác của pháp luật có liên quan thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm phải chịu một trong những hình thức kỷ luật sau đây: Khiển trách; Cảnh cáo; Hạ bậc lương; Hạ ngạch; Cách chức; Buộc thôi việc.
Việc giáng chức, cách chức chỉ áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý. Công chức bị Tòa án kết án phạt tù mà không được hưởng án treo thì đương nhiên bị buộc thôi việc kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; công chức lãnh đạo, quản lý phạm tội bị Tòa án kết án và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì đương nhiên thôi giữ chức vụ do bổ nhiệm.
Ngoài những quy định chung của chế tài kỷ luật được quy định trong Luật Công chức, viên chức năm 2008 thì Luật PCTN năm 2018 quy định nghiêm khắc hơn, thể hiện ở những nội dung sau: Người bị kết án về tội phạm tham nhũng là cán bộ, công chức, viên chức mà bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì đương nhiên bị buộc thôi việc đối với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng Nhân dân thì đương nhiên mất quyền đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng Nhân dân. (Điều 92 Luật PCTN năm 2018).
Chế tài hình sự: (Hình phạt) là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó. Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Tham nhũng thường được thực hiện bởi rất nhiều hành vi và không chỉ bởi hành vi của người có chức, có quyền mà còn liên quan đến nhiều hành vi của các đối tượng khác. Tuy nhiên, trong pháp luật hình sự, hành vi tham nhũng nào cần phải được hình sự hóa phụ thuộc vào các yếu tố như: Chủ thể phải là những người có chức, có quyền trong hệ thống chính trị; Phải là những hành vi tham nhũng ở mức độ cao hoặc hành vi làm không hết thẩm quyền, vượt thẩm qùyền, sai thẩm quyền liên quan đến tham nhũng: xuất phát từ động cơ cá nhân, vụ lợi; Có hậu quả thiệt hại cho Nhà nước, xã hội hoặc công dân; phải chứng minh được về mặt tố tụng.
Theo quy định của Luật PCTN năm 2018 và Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017) thì những hành vi tham nhũng sau được hình sự hóa và bị xử lý bằng chế tài hình sự: Tội tham ô tài sản (Điều 353); Tội nhận hối lộ (Điều 354); Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 355); Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 356); Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 357); Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 358); Tội giả mạo trong công tác (Điều 359).
Ngoài ra, theo quy định mới của Luật PCTN năm 2018 mở rộng việc PCTN ở khu vực ngoài nhà nước nên các tội danh sau cũng là tội tham nhũng: Tội đưa hối lộ (Điều 364), Tội môi giới hối lộ (Điều 365) (Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017).
Ngoài ra, các biện pháp tư pháp là một trong những hình thức của trách nhiệm hình sự mang tính cưỡng chế được áp dụng đối với người phạm tội hoặc người có hành vi nguy hiểm cho xã hội nhằm thay thế hình phạt hoặc hỗ trợ hình phạt theo các điều kiện và căn cứ pháp luật quy định. Những biện pháp tư pháp được áp dụng đối với người phạm tội tham nhũng bao gồm: Tịch thu vật, tiền bạc liên quan trực tiếp đến tội phạm (Điều 47(BLHS 2015) (sửa đổi, bổ sung một số Điều năm 2017); Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi Điều 48 (BLHS 2015) (sửa đổi, bổ sung một số Điều năm 2017).
Các biện pháp tư pháp nói trên được áp dụng đối với người phạm tội tham nhũng nhằm thu hồi, sữa chữa, khắc phục tài sản do người phạm tội chiếm đoạt bất hợp pháp bởi hành vi tham nhũng hoặc dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội trả lại cho chủ sở hữu hoặc xung công quĩ đồng thời nhằm tước đoạt những điều kiện để người phạm tội có thể tái phạm. Vì vậy, biện pháp tư pháp này không những có mục đích trừng trị đối với người phạm tội mà còn có ý nghĩa phòng ngừa tội phạm.
1.2. Thực trạng xử lý hành vi vi phạm pháp luật về PCTN
Trong những năm qua, công cuộc đấu tranh chống tham nhũng được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Song song với việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về PCTN, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng xây dựng, kiện toàn lực lượng có chức năng PCTN.
Các cơ quan thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử đã nỗ lực, tập trung lực lượng, tăng cường phối hợp trong phát hiện, điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc về tham nhũng; nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp mà dư luận xã hội đặc biệt quan tâm đã được tập trung đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử. Việc xét xử được đổi mới theo hướng công khai, dân chủ, minh bạch, theo đúng quy định của pháp luật, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không có đặc quyền, nghiêm minh, thấu tình đạt lý, được Nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao.
Cùng với việc phát hiện, xử lý nghiêm các vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế, các cơ quan chức năng đã chú trọng xác minh, áp dụng các biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản của các đối tượng phạm tội tham nhũng ngay từ giai đoạn điều tra, không để tẩu tán, hợp pháp hóa tài sản tham nhũng; khuyến khích người phạm tội tự nguyện giao nộp tài sản tham nhũng, khắc phục hậu quả thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Đóng góp chung vào kết quả phát hiện, xử lý tham nhũng, các cấp ủy Đảng và ủy ban kiểm tra các cấp đã tích cực, chủ động, quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm trong kiểm tra, giám sát; lựa chọn đối tượng, lĩnh vực, địa bàn nhạy cảm, phức tạp, dễ phát sinh vi phạm. Nhiều cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra, kết luận, làm rõ nhiều vi phạm, trên cơ sở đó quyết định hoặc đề nghị thi hành kỷ luật nghiêm minh, chính xác, kịp thời nhiều tổ chức đảng, đảng viên sai phạm. Đặc biệt, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kiểm tra, làm rõ nhiều vụ việc sai phạm rất nghiêm trọng liên quan đến tham nhũng, ban hành quyết định kỷ luật và đề nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương thi hành kỷ luật nhiều tổ chức đảng và đảng viên là cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước vi phạm, cả đương chức, chuyển công tác và đã nghỉ hưu.
Đồng thời, các cơ quan nhà nước đã thực hiện những hình thức kỷ luật tương xứng với hình thức kỷ luật của Đảng đối với cán bộ, công chức sai phạm, đảm bảo kịp thời, đồng bộ giữa kỷ luật của Đảng và kỷ luật theo pháp luật của Nhà nước.
Theo báo cáo số 330/BC-CP ngày 22/9/2016 của Chính phủ về tổng kết 10 năm thực hiện Luật PCTN năm 2005 thì trong 10 năm thực hiện Luật PCTN 2005, công tác điều tra, truy tố, xét xử các hành vi tham nhũng có nhiều tiến bộ. Các vụ án tham nhũng được phát hiện, xử lý với số lượng lớn (đã khởi tố 2.530 vụ án tham nhũng với 5.447 bị can; truy tố 2.959 vụ, 6.935 bị can; xét xử 2.628 vụ, 5.870 bị cáo).
Việc tăng cường chỉ đạo phát hiện, điều tra, xử lý các vụ án tham nhũng lớn được công luận đồng tình ủng hộ, qua đó đã có tác dụng răn đe, góp phần ngăn chặn các hành vi tham nhũng, bước đầu củng cố niềm tin của Nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với công tác PCTN. Thông qua việc xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng đã giúp các cấp, các ngành phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong quản lý kinh tế - xã hội, từ đó bổ sung cơ chế, chính sách, khắc phục những hạn chế, yếu kém, đưa ra các giải pháp phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng phù hợp hơn.
Tuy nhiên, công tác phát hiện và xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng vẫn còn những hạn chế, yếu kém. Hiệu quả phát hiện vụ việc tham nhũng qua thanh tra, kiểm tra, kiểm toán còn chưa cao; các cơ quan chức năng vào cuộc chưa quyết liệt. Thẩm quyền của các cơ quan này còn hạn chế, không đủ để làm rõ hành vi tham nhũng trong trường hợp đã phát hiện dấu hiệu tiêu cực, tham nhũng. Các vụ việc, vụ án tham nhũng được phát hiện, xử lý chủ yếu ở cấp cơ sở; nhiều vụ việc, vụ án có quy mô lớn chậm được phát hiện, khi phát hiện thì chậm được làm rõ, kết luận và xử lý. Công tác giám định tư pháp còn nhiều khó khăn, hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu. Việc xử lý các vụ án tham nhũng thường bị kéo dài, có một số trường hợp là tội phạm tham nhũng nhưng cho hưởng án treo chưa đúng với quy định của pháp luật.
Thực tế hiện nay, ngoài các vụ tham nhũng lớn mà người vi phạm phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đối với các vụ tham nhũng nhỏ hay tham nhũng “vặt”, cán bộ, công chức, viên chức vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Luật Viên chức năm 2010 và Nghị định số 34/2011/NĐ-CP, Nghị định số 27/2012/NĐ-CP hướng dẫn việc thi hành hai luật này. Tuy nhiên, cán bộ, công chức trong những vụ, việc vi phạm đạo đức nghề nghiệp, những vụ tham nhũng “vặt” thời gian qua hầu hết chỉ bị xử lý kỷ luật ở mức độ khá nhẹ so với hành vi vi phạm, trong đó chủ yếu là hình thức kỷ luật khiển trách và cảnh cáo, hay thuyên chuyển công tác. Số cán bộ vi phạm bị cách chức hoặc cho thôi việc là rất ít.
Có thể nói, chế tài theo quy định hiện hành đã có nhưng chưa thật sự nghiêm. Các quy định về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức quá nhẹ dẫn đến việc xử lý vi phạm của các đối tượng này trong suốt thời gian qua chưa thật sự có tính răn đe. Chưa kể một số quy định không rõ ràng khiến một số lãnh đạo đơn vị, cơ quan có cá nhân sai phạm dựa vào đó bao che cho cấp dưới của mình.
Bởi vậy, cần phải tăng nặng các biện pháp chế tài, bảo đảm tính nghiêm khắc và đủ sức răn đe hơn đối với các vi phạm, hoàn thiện thể chế vận hành chống tham nhũng, để cán bộ, công chức “không thể, không dám tham nhũng”.
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý hành vi vi phạm pháp luật về PCTN
Theo tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư cũng như quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong cuộc đấu tranh chống “giặc nội xâm”, để nâng cao hiệu quả công tác chống tham nhũng nói chung, nâng cao hiệu quả xử lý hành vi vi phạm pháp luật về PCTN nói riêng, cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PCTN. Các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương nâng cao nhận thức và thấy được sự nguy hiểm của “loại giặc nội xâm” này, từ đó tập trung nguồn lực tối đa cho công tác, PCTN. Trong đó có công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy cấp trên với cấp ủy cấp dưới, chú trọng cấp cơ sở. Nghiêm khắc truy cứu trách nhiệm của tổ chức đảng các cấp, lãnh đạo các cơ quan, địa phương, đơn vị, khi để cán bộ dưới quyền tham nhũng. Có như vậy các chỉ đạo của Trung ương đảng về công tác PCTN mới có sức mạnh lan tỏa trong các bộ, ngành địa phương để đẩy lùi “quốc nạn” tham nhũng.
Thứ hai, hệ thống pháp luật về PCTN đã được Đảng, Nhà nước quan tâm hoàn thiện làm cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh PCTN. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về PCTN hiện nay còn thiếu và chưa đồng bộ. Các quy định về PCTN trong khu vực ngoài nhà nước hiện còn đang bỏ trống ở rất nhiều lĩnh vực. Cần hoàn thiện và thực hiện tốt các quy định pháp luật về trách nhiệm và quyền hạn của cán bộ, công chức, viên chức cũng như các quy định về trách nhiệm đảng viên với đội ngũ này. Chú trọng việc thực hiện các giải pháp phòng ngừa tham nhũng còn hình thức, hiệu quả thấp (như kê khai tài sản...), tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, nhất là các lĩnh vực có nhiều dư luận tiêu cực, tham nhũng, lãng phí.
Thứ ba, cần phải xây dựng lực lượng chuyên trách chịu trách nhiệm chính trong cả nước về PCTN. Lực lượng này cần được đào tạo bài bản và được trao những quyền năng pháp lý đủ mạnh để đấu tranh PCTN. Trong lực lượng này cần xây dựng đội ngũ làm công tác PCTN đủ năng lực, có phẩm chất trong sáng vừa “hồng” vừa “chuyên”. Cần kiên quyết loại khỏi bộ máy của Đảng và Nhà nước những cán bộ hư hỏng, tham nhũng.
Thứ tư, tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật trong Nhân dân; phát huy vai trò của Nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tệ tham nhũng. Trong những năm qua, người dân và báo chí đã góp phần không nhỏ trong công cuộc đấu tranh PCTN. Để tăng cường hơn nữa sức mạnh của Nhân dân và báo chí trong công cuộc đấu tranh này cần nâng cao nhận thức của công dân và người làm báo để có những bài viết sắc bén đấu tranh trực diện với tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Tai mắt của người dân, sức mạnh của phương tiện thông tin đại chúng là một nhân tố quan trọng trong việc phòng ngừa, đấu tranh, xử lý hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ năm, cần cải cách chế độ tiền lương để cho cán bộ, công chức, người lao động có thể đủ sống bằng đồng lương của mình. Cần xây dựng một xã hội công khai, minh bạch để tham nhũng không còn đất sống, người có chức vụ quyền hạn không “muốn” và “không thể” tham nhũng.
Thứ sáu, xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng khi bị phát hiện. Đảm bảo rằng có hành vi tham nhũng thì sẽ bị pháp luật xử lý. Pháp luật là nghiêm minh không có “vùng cấm” đối với đối tượng vi phạm pháp luật./.
Nguyễn Đình Bính
Vụ Pháp chế, Thanh tra Chính phủ