Căn cứ pháp lý để vận dụng linh hoạt các quy định của Luật PCTN

Thứ hai, 22/08/2022 16:08
(ThanhtraVietNam) – Nghị định số 59 gồm 11 Chương, 89 Điều, quy định chi tiết một số điều, khoản của Luật PCTN năm 2018 và các biện pháp tổ chức thi hành Luật này. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng để Chính phủ và các bộ, ban, ngành, địa phương vận dụng linh hoạt, cụ thể các quy định của Luật PCTN năm 2018.

Luật Phòng, chống tham nhũng (PCTN) năm 2018 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2019 với nhiều điểm mới hướng đến mục tiêu xây dựng cơ chế phòng ngừa tham nhũng toàn diện và sâu rộng, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ cho việc phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi tham nhũng. Để tạo sự thống nhất trong quá trình triển khai thi hành, ngày 01/7/2019, Chính phủ ban hành Nghị định số 59/2019/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật PCTN năm 2018 (Nghị định số 59).

Nghị định số 59 gồm 11 Chương, 89 Điều, quy định chi tiết một số điều, khoản của Luật PCTN năm 2018 và các biện pháp tổ chức thi hành Luật này. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng để Chính phủ và các bộ, ban, ngành, địa phương vận dụng linh hoạt, cụ thể các quy định của Luật PCTN năm 2018.

Nghị định số 59 không chỉ áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước, người có chức vụ, quyền hạn công tác tại cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan trong PCTN mà còn áp dụng cả với các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước và người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức này.

Cơ sở phân biệt giới hạn nội dung thuộc và không thuộc phạm vi giải trình

Về trách nhiệm giải trình, khoản 1, Điều 15, Luật PCTN năm 2018 quy định:  Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có trách nhiệm giải trình về quyết định, hành vi của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao khi có yêu cầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân bị tác động trực tiếp bởi quyết định, hành vi đó. Người thực hiện trách nhiệm giải trình là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc người được phân công, người được ủy quyền hợp pháp để thực hiện trách nhiệm giải trình. Đối với nội dung này, Chương II của Nghị định số 59 quy định chi tiết như sau:

  - Nội dung giải trình là những cơ sở pháp lý của việc ban hành quyết định, thực hiện hành vi; thẩm quyền ban hành quyết định, thực hiện hành vi; trình tự, thủ tục ban hành quyết định, thực hiện hành vi; nội dung của quyết định, hành vi.

 - Điều kiện tiếp nhận yêu cầu giải trình là cá nhân yêu cầu phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ hoặc có người đại diện theo quy định của pháp luật; cơ quan, tổ chức, đơn vị yêu cầu giải trình có người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình; quyết định, hành vi của cơ quan, tổ chức, đơn vị được yêu cầu giải trình tác động trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có yêu cầu giải trình.

 - Những trường hợp được từ chối yêu cầu giải trình là không đủ điều kiện tiếp nhận yêu cầu giải trình như đã nói trên; nội dung yêu cầu giải trình đã được giải trình hoặc đã được cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền thụ lý giải quyết, trừ trường hợp người yêu cầu có lý do chính đáng; người yêu cầu giải trình đang trong tình trạng không làm chủ được hành vi do dùng chất kích thích hoặc có hành vi gây rối trật tự, đe dọa, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người tiếp nhận yêu cầu giải trình; người được ủy quyền, người đại diện không có giấy tờ hợp pháp theo quy định của pháp luật.

 - Những nội dung không thuộc phạm vi giải trình là nội dung thuộc bí mật nhà nước, bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật kinh doanh theo quy định của pháp luật; nội dung chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong nội bộ cơ quan, tổ chức, đơn vị mà chưa ban hành, chưa thực hiện hoặc nội dung chỉ đạo, điều hành của cơ quan cấp trên với cơ quan cấp dưới.

 Với quy định cụ thể này, Nghị định 59 đã tháo gỡ nhiều vướng mắc trong thực tiễn, giúp cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân yêu cầu giải trình và thực hiện trách nhiệm giải trình phân biệt rõ được giới hạn, phạm vi nội dung thuộc và không thuộc phạm vi giải trình.

 Cơ sở để áp dụng chế tài, xử lý hành vi tham nhũng gây hậu quả nghiêm trọng

 Một điểm mới trong Luật PCTN năm 2018 mà Nghị định 59 quy định rõ đó chính là quy định về việc tặng quà và nhận quà tặng. Cụ thể, cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có chức vụ, quyền hạn chỉ được sử dụng tài chính công, tài sản công để làm quà tặng vì mục đích từ thiện, đối ngoại và thực hiện chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật. Việc tặng quà phải thực hiện đúng chế độ, định mức, tiêu chuẩn, đối tượng theo quy định của pháp luật; cơ quan, đơn vị tặng quà phải hạch toán kế toán và thực hiện công khai trong cơ quan, đơn vị mình theo đúng quy định của pháp luật. Cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có chức vụ, quyền hạn không được trực tiếp hoặc gián tiếp nhận quà tặng dưới mọi hình thức của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan đến công việc do mình giải quyết hoặc thuộc phạm vi quản lý của mình.

Trường hợp cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có chức vụ, quyền hạn khi nhận được quà tặng không đúng quy định thì phải từ chối; trường hợp không từ chối được thì phải giao lại quà tặng cho bộ phận chịu trách nhiệm quản lý quà tặng của cơ quan đơn vị đó để xử lý theo quy định.

Trường hợp cơ quan, tổ chức, đơn vị sử dụng tài chính công, tài sản công tặng quà không đúng quy định thì phải bồi hoàn giá trị quà tặng cho Nhà nước. Cá nhân sử dụng tài chính công, tài sản công tặng quà không đúng thẩm quyền, không đúng quy định thì phải bồi hoàn giá trị quà tặng và tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản nhà nước. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị vi phạm quy định về nhận quà tặng, xử lý quà tặng, người có chức vụ, quyền hạn vi phạm quy định về nhận quà tặng, báo cáo, nộp lại quà tặng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật về xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản nhà nước.

leftcenterrightdel
Quy định của Nghị định số 59 là những căn cứ rất quan trọng để các cơ quan có thẩm quyền áp dụng những biện pháp cần thiết khi phát hiện xung đột lợi ích có thể dẫn đến các hành vi tham nhũng; đồng thời, cũng là cơ sở để áp dụng chế tài, xử lý hành vi tham nhũng gây hậu quả nghiêm trọng

Bên cạnh đó, trên cơ sở xác định rõ những trường hợp xung đột lợi ích, Nghị định số 59 quy định cụ thể các nội dung thông tin, báo cáo về xung đột lợi ích; xử lý thông tin, báo cáo về xung đột lợi ích; giám sát việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao của người có xung đột lợi ích; tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao của người có xung đột lợi ích; tạm thời chuyển người có xung đột lợi ích sang vị trí công tác khác; đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao của người có xung đột lợi ích và áp dụng pháp luật khác về kiểm soát xung đột lợi ích.

Đây sẽ là những căn cứ rất quan trọng để các cơ quan có thẩm quyền áp dụng những biện pháp cần thiết khi phát hiện xung đột lợi ích có thể dẫn đến các hành vi tham nhũng; đồng thời, cũng là cơ sở để áp dụng chế tài, xử lý hành vi tham nhũng gây hậu quả nghiêm trọng.

Áp dụng biện pháp PCTN trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước

Một trong những điểm nối bật của Nghị định số 59 là quy định về áp dụng biện pháp PCTN trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước.

Nghị định số 59 quy định, các biện pháp PCTN trong doanh nghiệp, tổ chức xã hội khu vực ngoài nhà nước bao gồm: Thực hiện công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước; thực hiện việc kiểm soát xung đột lợi ích trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước. Đồng thời, quy định trách nhiệm, xử lý trách nhiệm của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước khi để xảy ra tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức do mình quản lý.

Các nội dung công khai, minh bạch bao gồm: (1) Việc thực hiện chính sách, pháp luật có nội dung liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, thành viên; chế độ lương, thưởng; thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và các chế độ phúc lợi xã hội khác; quy tắc ứng xử, điều lệ doanh nghiệp, tổ chức; công tác tổ chức, bố trí nhân sự và các nội dung khác phải công khai, minh bạch theo quy định của pháp luật có liên quan. (2) Ngoài các nội dung nói trên, tổ chức xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có huy động các khoản đóng góp của nhân dân để hoạt động từ thiện còn phải công khai, minh bạch các nội dung sau: quy chế huy động, quản lý, sử dụng các khoản đóng góp để hoạt động từ thiện; quyền lợi và nghĩa vụ của người đóng góp, người được hưởng lợi; mục đích huy động các khoản đóng góp để hoạt động từ thiện; đối tượng, hình thức và mức huy động các khoản đóng góp; kết quả huy động, bao gồm: danh sách các đối tượng đóng góp, tài trợ, hình thức và mức đóng góp, tài trợ của từng đối tượng; kết quả quản lý, sử dụng các khoản huy động vào mục đích từ thiện.

Các nội dung thực hiện việc kiểm soát xung đột lợi ích trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước được thể hiện như sau: (1) Quy định cụ thể các trường hợp xung đột lợi ích, trách nhiệm thông tin, báo cáo về các trường hợp xung đột lợi ích và công khai, phổ biến, tập huấn cho toàn thể người lao động, thành viên của doanh nghiệp, tổ chức; (2) Quy định và thiết lập cơ chế tiếp nhận, xử lý thông tin, báo cáo về xung đột lợi ích trong doanh nghiệp, tổ chức, bao gồm việc giám sát và áp dụng các biện pháp phù hợp khác theo thẩm quyền để kiểm soát xung đột lợi ích; (3) Có biện pháp bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động đã thông tin, báo cáo về xung đột lợi ích trong doanh nghiệp, tổ chức khi bị thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại; (4) Báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật trong trường hợp xung đột lợi ích dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật cần phải ngăn chặn, xử lý kịp thời.

Ngoài các nội dung nêu trên, Nghị định số 59 còn quy định cụ thể về tiêu chí đánh giá công tác PCTN (Chương III); việc tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển sang vị trí công tác khác đối với người có chức vụ, quyền hạn có hành vi vi phạm liên quan đến tham nhũng (Chương VI); về công tác thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về PCTN đối với doanh nghiệp, tổ chức xã hội khu vực ngoài nhà nước (Chương VII); các nội dung về việc cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức; Chế độ thông tin, báo cáo về PCTN; Xử lý trách nhiệm người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng và xử lý vi phạm đối với hành vi khác vi phạm pháp luật về PCTN (Chương VIII, Chương IX, Chương X). Đây là những nội dung hết sức quan trọng và cần thiết trong điều kiện hiện nay, khi mà pháp luật PCTN hiện hành chưa đủ căn cứ và chế tài để xử lý trách nhiệm của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.

Nghị định số 59 có có hiệu lực thi hành từ ngày 15/8/2019./.

 

Bảo Anh
Ý kiến bình luận
Họ và tên *
Email *
Nội dung bình luận *
Xác thực *

Bản quyền thuộc Tạp chí Thanh tra