Phát biểu tại Hội thảo, Chủ nhiệm đề tài khoa học cấp bộ “Quốc hội giám sát thi hành pháp luật của Chính phủ và trách nhiệm giải trình của Chính phủ trước Quốc hội - Lý luận và thực tiễn”, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Nguyễn Thị Mai Thoa nhấn mạnh, trong thời gian vừa qua, hoạt động giám sát của Quốc hội ngày càng được quan tâm, hiệu quả cao hơn và có nhiều đổi mới. Tuy vậy, vẫn còn những nội dung cần tiếp tục nghiên cứu và thảo luận, nhất là trong bối cảnh Quốc hội đang tiến hành tổng kết thực tiễn việc thực hiện Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng Nhân dân.
Theo TS. Đinh Văn Minh, nguyên Vụ trưởng Vụ pháp chế, Thanh tra Chính phủ, hiện nay Quốc hội giám sát đối với hoạt động của Chính phủ thông qua các hình thức như: Thông qua việc xem xét báo cáo; thông qua kiểm tra việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật; thông qua việc trả lời chất vấn và thông qua các đoàn giám sát.
Trên cơ sở kết quả giám sát, hậu quả pháp lý của giám sát tối cao có thể là một Nghị quyết về kết quả bỏ phiếu tín nhiệm, bãi nhiệm, miễn nhiệm, đề nghị cách chức đối với một hay một số chức danh thuộc đối tương giám sát tối cao của Quốc hội, những người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Hoặc căn cứ vào kết quả chất vấn, trả lời chất vấn, hậu quả pháp lý của giám sát tối cao có thể là một Nghị quyết thể hiện sự đánh giá của Quốc hội về trách nhiệm, phạm vi, mức độ trách nhiệm và năng lực, hiệu quả công tác của người bị chất vấn trong trường hợp cần thiết thì xử lý hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý trách nhiệm; những vấn đề cần điều chỉnh của pháp luật liên quan về công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của người bị chất vấn. Ngoài ra, cũng căn cứ vào kết quả hoạt động giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Quốc hội xem xét và thảo luận đề nghị của UBTVQH về văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội. Hậu quả pháp lý của giám sát tối cao có thể là một Nghị quyết bãi bỏ toàn bộ hoặc một phần văn bản quy phạm pháp luật của các chủ thể có liên quan.
Theo quy định của Hiến pháp, Chính phủ có trách nhiệm báo cáo và giải trình trước Quốc hội về việc tổ chức thi hành pháp luật. Đây cũng là nội dung mà Quốc hội sẽ thực hiện giám sát thông qua các hình thức khác nhau theo quy định của pháp luật và cũng là những nội dung Chính phủ phải báo cáo và có trách nhiệm giải trình trước Quốc hội. TS Đinh Văn Minh cho rằng, thời gian qua, Chính phủ thực hiện trách nhiệm giải trình trước Quốc hội khá nghiêm túc, có chất lượng và hiệu quả. Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn ngày càng thực chất hơn thông qua trao đổi thẳng thắn, cởi mở và dân chủ. Chính phủ và các bộ trưởng trả lời, giải trình trực diện vào những vấn đề được chất vấn và có những bộ trưởng thể hiện sự cam kết mạnh mẽ về những thay đổi cần thiết nhằm cải thiện tình hình, khắc phục những hạn chế, yếu kém về quản lý trong phạm vi lĩnh vực ngành mình phụ trách.
Tuy nhiên, theo TS. Đinh Văn Minh, vẫn có điểm còn hạn chế trong trách nhiệm giải trình với ý nghĩa là việc chịu trách nhiệm chính trị của Chính phủ và các thành viên Chính phủ đối với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Ông Minh cũng viện dẫn Điều 21, Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội quy định thẩm quyền của Quốc hội trong việc xem xét kết quả giám sát. Ông cho rằng, ở đây mới chỉ đề cập đến trách nhiệm của từng cá nhân thành viên Chính phủ mà chưa có quy định xem xét trách nhiệm giải trình của tập thể Chính phủ trước Quốc hội. Đây là vấn đề cần nghiên cứu để tìm ra giải pháp phù hợp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay.
|
|
TS.Nguyễn Đình Quyền, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp |
Cũng tại hội thảo, một số ý kiến đại biểu cho rằng, thời gian qua, nhiều chuyên đề giám sát đi vào những vấn đề lớn, “nóng” được cử tri quan tâm, thông qua đó nâng cao hiệu quả giám sát chuyên đề, tạo hiệu ứng tích cực trong xã hội, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với hoạt động của Quốc hội. Đồng thời, trên thực tế, Chính phủ cũng ngày càng thực hiện tốt hơn trách nhiệm giải trình với việc cung cấp thông tin đầy đủ và kịp thời tại các Kỳ họp cũng như phục vụ các hoạt động giám sát khác của Quốc hội. Tuy nhiên, cơ sở pháp lý và hoạt động giám sát thi hành pháp luật của Quốc hội còn có những hạn chế bất cập. Việc thực hiện các nghị quyết sau giám sát có trường hợp chưa đáp ứng được yêu cầu do chưa xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể có liên quan, chưa có biện pháp và chế tài xử lý phù hợp.
Về những yêu cầu đặt ra để nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội, TS.Nguyễn Đình Quyền, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp cho rằng, giám sát của Quốc hội phải được tiến hành đồng bộ trên tất cả các phương thức giám sát đối với công tác thi hành, tổ chức thực hiện pháp luật của Chính phủ. Việc giám sát phải tuân thủ nghiêm hiến pháp và pháp luật và phải khách quan, công khai, minh bạch, rõ trách nhiệm.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục nghiên cứu để xác định rõ hơn đối tượng, phạm vi, phương pháp, hình thức giám sát tối cao của Quốc hội; bảo đảm hoạt động giám sát được tiến hành thường xuyên, liên tục, thường xuyên đánh giá việc thực hiện các nghị quyết, kết luận giám sát.