Vai trò, tác động của Chương trình POSCIS đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra (Bài 3)

Thứ bảy, 29/12/2012 10:56
(ThanhtraVietnam) - Với sự hỗ trợ của Chương trình POSCIS, Luật thanh tra năm 2010 ra đời đã bổ sung, cụ thể hóa các quy định về thanh tra viên và điều kiện bảo đảm hoạt động của các cơ quan Thanh tra nhà nước, góp phần tăng cường năng lực của ngành Thanh tra, xây dựng đội ngũ công chức thanh tra từng bước chuyên nghiệp, hiện đại, để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ công tác thanh tra. Luật cũng phân biệt rõ hơn thanh tra hành chính với thanh tra chuyên ngành, để trên cơ sở đó xác lập trình tự, thủ tục phù hợp với từng loại hình hoạt động thanh tra, tạo điều kiện nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra. Đặc biệt, Luật đã bổ sung một cơ sở pháp lý quan trọng để đẩy mạnh thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động thanh tra, đồng thời, góp phần phát huy cơ chế giám sát đối với hoạt động thanh tra, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thanh tra.

Tin liên quan:

> Vai trò, tác động của Chương trình POSCIS đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra (Bài 2)

>> Vai trò, tác động của Chương trình Poscis đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra (Bài 1)

1.3. Bổ sung, cụ thể hóa các quy định về thanh tra viên và điều kiện bảo đảm hoạt động của cơ quan Thanh tra nhà nước, góp phần tăng cường năng lực của ngành Thanh tra, xây dựng đội ngũ công chức thanh tra từng bước chuyên nghiệp, hiện đại, để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ công tác thanh tra

Luật thanh tra năm 2010 đã bổ sung thêm một chương riêng để quy định về thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, cộng tác viên thanh tra. Luật cũng dành hẳn một chương mới để quy định về điều kiện bảo đảm hoạt động của cơ quan Thanh tra nhà nước. Hướng dẫn thi hành Luật thanh tra năm 2010, Nghị định số 97/2011/NĐ- CP ngày 21/10/2011 của Chính phủ đã có những quy định cụ thể về thanh tra viên và cộng tác viên thanh tra. Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thanh tra cũng có một chương quy định rõ trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo đảm công tác thanh tra từ việc bảo đảm về tổ chức của cơ quan Thanh tra nhà nước, bảo đảm về hoạt động của cơ quan Thanh tra nhà nước, bảo đảm về kinh phí hoạt động của cơ quan Thanh tra nhà nước cho đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động thanh tra. Qua đó, góp phần tăng cường năng lực của ngành Thanh tra, đồng thời tạo điều kiện xây lực lượng thanh tra ngày càng chuyên nghiệp, vững mạnh. Đây chính là cơ sở thuận lợi để các cơ quan Thanh tra nhà nước thực hiện tốt hơn nhiệm vụ thanh tra mà pháp luật đã giao.

1.4. Phân biệt rõ hơn thanh tra hành chính với thanh tra chuyên ngành, để trên cơ sở đó xác lập trình tự, thủ tục phù hợp với từng loại hình hoạt động thanh tra, tạo điều kiện nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra

So với Luật thanh tra năm 2004, Luật thanh tra năm 2010 đã phân biệt và làm rõ hơn bản chất, đặc điểm từng loại hình hoạt động thanh tra: thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Theo Điều 3 của Luật thanh tra năm 2010 thì Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Còn Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó.

Như vậy, thanh tra hành chính là thanh tra việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức thuộc phạm vi quản lý của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp, nếu phát hiện có vi phạm thì kiến nghị Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước xử lý. Nói khái quát, thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra hướng vào đối tượng bên trong bộ máy. Khác với thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra việc thực hiện pháp luật chuyên ngành, việc chấp hành các quy định về quy chuẩn kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ, ngành, trừ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mang tính chất công vụ. Đây là hoạt động thanh tra hướng ra ngoài bộ máy, ra ngoài xã hội nhằm phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực. Hoạt động thanh tra chuyên ngành được tiến hành thường xuyên, nếu phát hiện có vi phạm thì xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

Về mặt chủ thể, hoạt động thanh tra hành chính chủ yếu do Thanh tra Chính phủ và các cơ quan Thanh tra nhà nước khác (Thanh tra bộ, Thanh tra cấp tỉnh, Thanh tra sở, Thanh tra cấp huyện) quyết định và tiến hành. Ngoài ra, đối với những vụ việc phức tạp, liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều cơ quan, đơn vị hoặc đối với những  vụ việc đặc biệt phức tạp, liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều cấp, nhiều ngành thì Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước (Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Giám đốc sở, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện) ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra hoặc Đoàn thanh tra liên ngành để thực hiện nhiệm vụ thanh tra. Không như thanh tra hành chính, hoạt động thanh tra chuyên ngành chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực quyết định và thực hiện. Cụ thể là, Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở, Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra để thực hiện quyết định thanh tra. Khi xét thấy cần thiết, Bộ trưởng, Giám đốc sở ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra.

Chính vì sự khác biệt rõ ràng như vậy, nên Luật thanh tra năm 2010 và Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thanh tra đã thiết kế, xây dựng những trình tự, thủ tục riêng phù hợp với từng loại hình thanh tra, đặc biệt là thể hiện được tính đặc thù của hoạt động thanh tra chuyên ngành là sự linh hoạt, kịp thời trong việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, qua đó tạo điều kiện nâng cao hiệu lực, hiệu quả của từng loại hình hoạt động thanh tra trong thực tiễn. Trên cơ sở trình tự, thủ tục thanh tra do Luật quy định, các Bộ, ngành và UBND các tỉnh, thành phố cũng đã ban hành các Quy trình thanh tra phù hợp với ngành, lĩnh vực, địa bàn quản lý của mình như  Bộ Tài chính ban hành Quy trình thanh tra tài chính đối với các dự án đầu tư, xây dựng, Quy trình thanh tra tài chính tại các cơ quan hành chính, Quy trình thanh tra tài chính các đơn vị sự nghiệp công lập, Quy trình thanh tra tài chính các doanh nghiệp...; Bộ Kế hoạch – Đầu tư ban hành các Quy trình: thanh tra về dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn nhà nước, thanh tra về đấu thầu...;UBND tỉnh Khánh Hòa ban hành các Quy trình thanh tra chấp hành pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng...; UBND TP. Hồ Chí Minh ban hành Quy trình thanh tra quản lý, sử dụng đất đai...Đây chính là việc quy chuẩn hóa các bước thanh tra  từ chuẩn bị, tiến hành cho đến khi kết thúc thanh tra, giúp cho cán bộ thanh tra, người làm công tác thanh tra có điều kiện thực hiện tốt hơn các biện pháp nghiệp vụ thanh tra, nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ thanh tra, nâng cao chất lượng kết luận thanh tra để đáp ứng những yêu cầu đặt ra từ thực tế và trong quản lý nhà nước.

1.5. Tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động thanh tra

Công khai được Luật thanh tra năm 2010 tiếp tục ghi nhận là một trong những nguyên tắc cơ bản trong trong hoạt động thanh tra. Hơn thế, Luật thanh tra năm 2010 còn có nhiều quy định mới đảm bảo sự công khai, minh bạch hơn trong xây dựng kế hoạch thanh tra, quyết định thanh tra, việc thực hiện quyền hạn, trách nhiệm của Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra, người ra quyết định thanh tra, việc kết luận thanh tra, việc xử lý kết luận thanh tra, thực hiện kết luận thanh tra và quyết định xử lý về thanh tra...

Theo đó, việc công khai được chú trọng ngay từ khâu kế hoạch thanh tra, Luật thanh tra năm 2010 quy định kế hoạch thanh tra được gửi cho đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức có liên quan. Trên cơ sở quy định của Luật, Quy định công khai, minh bạch nhằm phòng, chống tham nhũng trong ngành Thanh tra (ban hành kèm theo Thông tư số 05/2011/TT-TTCP ngày 10/01/2011 của Thanh tra Chính phủ) tại Điều 6, đã nêu rõ hơn: Các cơ quan Thanh tra nhà nước phải “công khai trên phương tiện thông tin đại chúng, trang thông tin điện tử… kế hoạch thanh tra hàng năm đã được phê duyệt ngay sau khi người có thẩm quyền ký duyệt, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.

Việc công khai quyết định thanh tra cũng được tăng cường một bước. Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thanh tra năm 2010, đã quy định theo hướng mở rộng hơn về thành phần tham dự buổi công bố quyết định thanh tra. Ngoài thành phần bao gồm đại diện lãnh đạo cơ quan chủ trì thanh tra, Đoàn thanh tra, Thủ trưởng cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân là đối tượng thanh tra, pháp luật cho phép Trưởng đoàn thanh tra trong trường hợp cần thiết, mời đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tham dự buổi công bố quyết định thanh tra.

Đặc biệt, thể hiện một bước tiến rõ nét trong tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động thanh tra là việc Luật thanh tra năm 2010 đã bổ sung những quy định mới về công khai kết luận thanh tra cũng như trách nhiệm của người có thẩm quyền đối với việc công khai kết luận thanh tra. Trên cơ sở đó, Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ đã hướng dẫn khá cụ thể việc thực hiện quy định này. Đây chính là cơ sở pháp lý để đẩy mạnh thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động thanh tra, tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, báo chí và nhân dân giám sát việc thực hiện các kết luận, kiến nghị thanh tra. Theo đó, kết luận thanh tra phải được người ra kết luận thanh tra công khai trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ký, trừ những nội dung trong kết luận thuộc bí mật nhà nước. Hình thức chính để công khai kết luận thanh tra mà người ra kết luận thanh tra phải thực hiện là công bố kết luận tại cuộc họp với thành phần gồm người ra quyết định thanh tra hoặc người được ủy quyền, đại diện Đoàn thanh tra, đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Ngoài việc công khai kết luận thanh tra theo hình thức này, người ra kết luận thanh tra lựa chọn ít nhất một trong các hình thức: Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng; đưa lên trang thông tin điện tử của cơ quan Thanh tra nhà nước, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành hoặc cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp; niêm yết kết luận thanh tra tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra.

Luật thanh tra năm 2010 và Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ cũng quy định cụ thể trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ký kết luận thanh tra, người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm cung cấp kết luận thanh tra cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thực hiện kết luận thanh tra. Căn cứ vào phạm vi trách nhiệm thực hiện kết luận thanh tra, người ra quyết định thanh tra cung cấp một phần hay toàn bộ kết luận thanh tra cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Có thể thấy, Luật thanh tra năm 2010 và Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ đã quy định hết sức rõ ràng, cụ thể về công khai kết luận thanh tra, bổ sung một cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động thanh tra. Triển khai thực hiện tốt quy định này của Luật không chỉ tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ trong việc thực hiện chủ trương công khai, minh bạch, mà còn phát huy cơ chế giám sát đối với hoạt động thanh tra, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thanh tra...

(Còn nữa)

 TCTT

letiendat
Ý kiến bình luận
Họ và tên *
Email *
Nội dung bình luận *
Xác thực *

Bản quyền thuộc Tạp chí Thanh tra