Khi Đảng Cộng sản Việt Nam từ vai trò là Đảng lãnh đạo trở thành Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định vai trò hết sức quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Người nhấn mạnh: “Là một Đảng lãnh đạo, Đảng ta cần phải mạnh mẽ, trong sạch, kiểu mẫu”(1); “đối với vận mệnh của nước nhà và dân tộc, Đảng có trách nhiệm vô cùng to lớn. Cho nên, xây dựng Đảng là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của Nhân dân ta”(2). Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã quán triệt, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được thực hiện trên tất cả các mặt: tư tưởng, chính trị, tổ chức, đạo đức và cán bộ, trong đó đặc biệt nhấn mạnh: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên, phát huy tính tiền phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân của cán bộ, đảng viên”.
Nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh, ngày 16/06/2022, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 21).
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương nêu rõ, “nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên luôn được Đảng ta coi trọng và xác định là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên”. Trên thực tế, những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai nhiều chủ trương quan trọng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp đã lãnh đạo, chỉ đạo, cụ thể hoá, tổ chức thực hiện đạt hiệu quả cao. Công tác xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh được đẩy mạnh; tổ chức cơ sở đảng tiếp tục được củng cố, kiện toàn, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở, gắn với xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Theo thống kê, tính đến 31/12/2020, cả nước có 51.988 tổ chức cơ sở Đảng, với hơn 5,2 triệu đảng viên. Tỷ lệ đảng viên trên dân số cả nước là 5,4% (bình quân 100 người dân có khoảng 06 đảng viên). Tuổi trung bình của đảng viên là 43,9; 80,1% là đảng viên đang công tác, làm việc; 19,9% đảng viên đã nghỉ hưu. Chất lượng đội ngũ đảng viên chuyển biến tích cực, trình độ hơn. Phần lớn nêu cao tinh thần trách nhiệm, có ý thức rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, tự phê bình, phê bình, tiên phong, gương mẫu, có mối quan hệ mật thiết với Nhân dân. Những kết quả nêu trên có ý nghĩa quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên.
Tuy nhiên, chất lượng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn hạn chế; một số cấp uỷ cơ sở chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu; chưa chủ động, kịp thời kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; mất sức chiến đấu, để xảy ra tiêu cực, tham nhũng, vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật, giảm niềm tin của Nhân dân với Đảng. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đánh giá: “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng đảng còn thấp, nhất là việc tổ chức thực hiện nghị quyết và khả năng phát hiện, đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo giải quyết những vấn đề phát sinh ở cơ sở”. Theo số liệu thống kê, trong nhiệm kỳ 2016 - 2020, có 664 tổ chức cơ sở Đảng bị thi hành kỷ luật (khiển trách 503 tổ chức, cảnh cáo 161 tổ chức), tăng 114 tổ chức so với nhiệm kỳ 2010 - 2015, trung bình mỗi năm thi hành kỷ luật hơn 100 tổ chức (khoảng 0,2%). Năm 2021, cấp ủy các cấp đã thi hành kỷ luật 223 tổ chức đảng (khiển trách 159 tổ chức, cảnh cáo 64 tổ chức). Bên cạnh đó, một bộ phận đảng viên năng lực, trình độ trách nhiệm chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, phai nhạt lý tưởng cách mạng, thiếu bản lĩnh chính trị, đấu tranh tự phê bình và phê bình yếu, ý chí phấn đấu giảm sút, chưa gương mẫu, suy thoái, “tự diễn biến”, ”tự chuyển hóa”, vi phạm nguyên tắc, kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật. Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, nhiều đảng viên bị xử lý kỷ luật, xử lý hình sự, làm suy giảm lòng tin của Nhân dân đối với Đảng. Từ năm 2016 - 2020, có 25.104 đảng viên suy thoái hoặc có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bị xử lý kỷ luật (0,5% tổng số đảng viên). Trong đó, điển hình như vụ việc sai phạm trong thực hiện gói thầu mua sắm kit xét nghiệm Covid-19 của Công ty CP Công nghệ Việt Á, đã có nhiều cấp ủy, cán bộ, đảng viên sai phạm nghiêm trọng kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước và đã bị thi hành kỷ luật đảng, xử lý hình sự; trong đó có cả cán bộ cao cấp.
Nguyên nhân của những yếu kém nêu trên được Ban Chấp hành Trung ương chỉ ra chủ yếu là do: Nhận thức của một số cấp uỷ, một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa sâu sắc, toàn diện về vai trò, vị trí, yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp uỷ chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Một số tổ chức cơ sở đảng buông lỏng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, chưa nắm chắc diễn biến tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của đảng viên; đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên còn biểu hiện nể nang, hình thức, nặng về thành tích; chưa làm tốt công tác quản lý, kiểm tra, giám sát đảng viên, việc chuyển sinh hoạt đảng, xét miễn sinh hoạt đảng còn lỏng lẻo; chưa thường xuyên rà soát, kiên quyết sàng lọc đưa đảng viên không đủ tư cách ra khỏi Đảng. Công tác phát triển đảng viên ở một số nơi còn hạn chế, nặng về số lượng, chưa quan tâm giáo dục lý tưởng cách mạng và rèn luyện, thử thách đối với quần chúng phấn đấu vào Đảng; chất lượng một số đảng viên mới còn hạn chế. Một số quy định, hướng dẫn về tổ chức cơ sở đảng, đảng viên chậm được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung.
Căn cứ tình hình thực tiễn, Nghị quyết số 21 đề ra mục tiêu cụ thể, đến năm 2025: Hằng năm có trên 90% tổ chức cơ sở đảng, đảng viên được đánh giá, xếp loại từ hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên; phấn đấu 100% thôn, bản có đảng viên. Tỉ lệ kết nạp đảng viên mới hằng năm trong giai đoạn 2020 - 2025 đạt từ 3 - 4% tổng số đảng viên. Đến năm 2030: Hằng năm có trên 90% tổ chức cơ sở đảng, đảng viên được đánh giá, xếp loại từ hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên; phấn đấu 100% thôn, bản, tổ dân phố có chi bộ. Tỉ lệ kết nạp đảng viên mới hằng năm trong giai đoạn 2025 - 2030 đạt từ 3 - 4% tổng số đảng viên.
Để đạt được mục tiêu nói trên, đòi hỏi phải đổi mới, hoàn thiện tổ chức các loại hình tổ chức cơ sở đảng. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của các loại hình tổ chức cơ sở đảng. Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, kỹ năng và nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp uỷ viên cơ sở. Chú trọng đổi mới, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đảng viên, tăng cường công tác quản lý đảng viên; kịp thời rà soát, sàng lọc đưa ra khỏi Đảng những đảng viên không đủ tư cách và đẩy mạnh nâng cao chất lượng công tác kết nạp đảng viên.
Bên cạnh đó, phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Coi trọng tự kiểm tra, giám sát của cấp uỷ, tổ chức cơ sở đảng; kết hợp kiểm tra, giám sát thường xuyên với kiểm tra, giám sát theo chuyên đề. Tăng cường kiểm tra, giám sát của cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra cấp trên đối với tổ chức cơ sở đảng. Đồng thời, tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn của uỷ ban kiểm tra cấp trên đối với cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra cấp uỷ cơ sở về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; kịp thời xử lý kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên.
Các tổ chức cơ sở đảng cũng cần nghiên cứu, cụ thể hóa Nghị quyết số 21 phù hợp với điều kiện thực tiễn của đơn vị mình, gắn với thực hiện Kết luận số 21 về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo tổng kết thực tiễn, đẩy mạnh củng cố, sắp xếp tổ chức cơ sở đảng đồng bộ với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và công tác cán bộ./.
Chú thích:
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập Nxb. CTQG Sự thật, H.2011, t7. tr.415
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập Nxb. CTQG Sự thật, H.2011, t8. tr.279