Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quan trọng lãnh đạo, chỉ đạo toàn hệ thống chính trị, tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp đổi mới hệ thống tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập (SNCL). Trong đó, việc đổi mới công tác thanh, kiểm tra, giám sát hoạt động tài chính đối với các đơn vị SNCL là tất yếu.
Hiện nay, công tác thanh, kiểm tra, giám sát hoạt động tài chính đối với các đơn vị SNCL bước đầu đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần lành mạnh hóa tài chính quốc gia, nhất là nguồn lực từ ngân sách Nhà nước (NSNN). Điều đó cũng góp phần thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta. Trong đó, hoạt động thanh tra ngành tài chính nói chung được quy định tại Nghị định số 82/2012/NĐ-CP ngày 09/10/2012. Nghị định này quy định tổ chức và hoạt động của các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra ngành Tài chính; thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành và cộng tác viên thanh tra ngành Tài chính; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động thanh tra ngành Tài chính. (1)
Theo đó, công tác thanh tra hành chính triển khai ở cấp trung ương được thực hiện bởi Thanh tra Bộ Tài chính và ở địa phương được thực hiện bởi Thanh tra Sở Tài chính. Nội dung thanh tra là: thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tài chính, Sở Tài chính; của cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài có nghĩa vụ chấp hành quy định pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài chính, Sở Tài chính. (2)
Công tác thanh tra chuyên ngành, được thực hiện bởi: Thanh tra Bộ Tài chính thanh tra việc chấp hành quy định pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài chính; Thanh tra Sở Tài chính thanh tra việc chấp hành quy định pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Sở Tài chính; Tổng cục, Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm, Cục thuộc Tổng cục, Chi cục Thuế thực hiện thanh tra chuyên ngành trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý theo phân công của cấp có thẩm quyền; Tổng cục Thuế, Cục Thuế, Chi cục Thuế thanh tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác của NSNN; Tổng cục Hải quan, Cục Hải quan thanh tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về hải quan, pháp luật về thuế và các khoản thu khác đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; Tổng cục Dự trữ Nhà nước, Cục Dự trữ Nhà nước khu vực thanh tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về dự trữ quốc gia; Kho bạc Nhà nước, Kho bạc Nhà nước ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thanh tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về các khoản chi NSNN thực hiện tại Kho bạc Nhà nước, việc chấp hành các quy định của pháp luật của các quỹ tài chính do Kho bạc Nhà nước quản lý; Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thanh tra hoạt động chào bán chứng khoán, niêm yết, giao dịch chứng khoán, kinh doanh, đầu tư, dịch vụ về chứng khoán và thị trường chứng khoán, công bố thông tin và các hoạt động khác có liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán; Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm thanh tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm. (3)
Việc kiểm tra, giám sát hoạt động tài chính đối với các đơn vị SNCL đào tạo, bồi dưỡng được thực hiện chủ yếu bởi 03 chủ thể, đó là: Kho bạc Nhà nước (KBNN); Cơ quan chủ quản và các cơ quan Nhà nước liên quan. Ngoài ra, trong phạm vi mỗi đơn vị còn thực hiện hoạt động kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ nhằm đảm bảo chức năng giám sát như tại Điều 39 Luật Kế toán năm 2015 quy định.
Hiện nay, ở các đơn vị SNCL, công tác tự kiểm tra tài chính, kế toán tại đơn vị đã có nhưng ở các mức độ khác nhau và hầu hết chưa có bộ phận chuyên trách.
Các đơn vị SNCL đào tạo, bồi dưỡng cơ bản đã nhận thức được vai trò của công tác kiểm tra, giám sát hoạt động. Tuy nhiên, nhận thức về vai trò, vị trí của công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát nói chung và công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động tài chính nói riêng còn chưa đầy đủ; hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát thường bị đối phó, e ngại từ phía đối tượng bị quản lý. Trong thời gian dài, các đơn vị thực hiện theo cơ chế bao cấp nên chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc xây dựng và thiết lập một hệ thống kiểm tra, giám sát nội bộ. Việc giám sát còn lỏng lẻo, chỉ mang tính hình thức, chưa đi vào thực chất. Bộ phận giám sát chủ yếu là Ban Thanh tra và không có cán bộ chuyên trách, do đó không có thời gian tập trung công việc, không đủ năng lực chuyên môn để thực hiện chức năng này. Trong khi đó, thanh tra, kiểm tra luôn đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu trong bất kỳ hoạt động nào, đối với hoạt động tài chính càng cần thiết phải đẩy mạnh kiểm tra, giám sát.
Các kết luận, kiến nghị sau khi thanh tra, kiểm tra chưa được các đơn vị, cá nhân có liên quan nghiêm chỉnh thực hiện, trong khi đó lại chưa có chế tài đảm bảo việc thực hiện các kết luận này. Nội dung và phương pháp thanh tra, kiểm tra trong QLTC chủ yếu tập trung vào nguồn thu, nhiệm vụ chi và trách nhiệm của đơn vị, cá nhân trực tiếp sử dụng NSNN, chưa chú trọng thực hiện đối với khâu quy trình, quy chế chi tiêu nội bộ, sử dụng, xử lý tài sản... Nghiệp vụ và phương pháp thanh tra, kiểm tra còn giản đơn dẫn tới một số kết luận, kiến nghị không thực sự thuyết phục hoặc không khả thi. Kết quả thanh tra, kiểm tra và kết quả chấp hành kết luận thanh tra, kiểm tra hầu như chưa được công bố công khai rộng rãi, điều này làm hạn chế sự giám sát của cộng đồng và làm giảm hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra. Chưa có giải pháp hữu hiệu để phát huy vai trò giám sát của cán bộ viên chức trong các đơn vị nhằm phát hiện, ngăn chặn góp phần xử lý tham nhũng, lãng phí nhất là trong công tác quản lý tài chính.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng chủ yếu là:
Việc thể chế hóa các chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực SNCL còn chậm và chưa đầy đủ, chưa đồng bộ, còn chồng chéo, chưa theo kịp và chưa phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động tài chính của các đơn vị SNCL còn hạn chế, chưa có chế tài xử lý những sai phạm.
Nhận thức, trình độ và tư duy, năng lực quản trị và chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhìn chung còn yếu kém, chậm đổi mới, còn tư tưởng ỷ lại vào sự bao cấp của Nhà nước; thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu chưa được quy định rõ ràng; chưa xây dựng được các quy định, tiêu chí cụ thể để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ gắn với chất lượng hoạt động của đơn vị SNCL; chưa có hệ thống đánh giá kết quả hoạt động thích hợp với đặc thù của từng ngành; chưa có cơ chế giám sát hiệu quả.
Các đơn vị còn chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc xây dựng ban hành quy trình tự kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Nhiều nhận định cho rằng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động tài chính của các đơn vị SNCL còn chưa được quan tâm thực hiện một cách thường xuyên, đầy đủ.
Công tác giám sát của các đơn vị chưa phát huy hết vai trò còn mang tính hình thức, lỏng lẻo mà chưa đi vào thực chất. Bộ phận giám sát chủ yếu là Thanh tra Nhân dân chưa có chuyên môn sâu, đủ năng lực đảm nhiệm công việc.
Trong thời gian tới, công tác thanh, kiểm tra, giám sát các hoạt động tài chính đối với đơn vị SNCL đào tạo, bồi dưỡng cần tiếp tục được đổi mới, hoàn thiện hơn nữa thông qua một số giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, cần tiếp tục rà soát sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật, đổi mới cơ chế theo hướng phân định rõ, tách biệt giữa chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể tiến hành thanh, kiểm tra, giám sát các hoạt động tài chính nhằm tránh chồng chéo.
Thứ hai, cần điều chỉnh cơ chế thanh, kiểm tra, giám sát các hoạt động tài chính đối với các đơn vị SNCL theo hướng tăng cường sự phân cấp. Theo đó, sắp xếp, tổ chức lại các chủ thể thực hiện thanh, kiểm tra, giám sát; đồng bộ tổ chức thực hiện nhiệm vụ, minh bạch hóa kết quả thanh, kiểm tra, giám sát.
Thứ ba, hoàn thiện công tác kiểm tra tài chính thông qua việc hoàn thiện công tác kiểm tra kế toán và kiểm toán nội bộ, tăng cường kiểm soát các hoạt động tài chính nhất là kiểm soát chi NSNN qua hệ thống KBNN.
Nguyên tắc tự kiểm tra, kiểm soát của hệ thống thông tin tài chính cũng như việc tổ chức kiểm tra tài chính trong nội bộ các đơn vị có ý nghĩa vô cùng quan trọng và cần thiết. Nó đảm bảo thông tin tài chính được cung cấp kịp thời, chính xác, đúng với chế độ chính sách, chế độ quản lý kinh tế - tài chính nói chung và chế độ kế toán nói riêng phù hợp với yêu cầu quản lý vĩ mô, vi mô nền kinh tế.
Bên cạnh đó, việc kiểm soát chặt chẽ các khoản chi NSNN là mối quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nước và của các cấp ngành với mục tiêu là các khoản chi ngân sách phải đảm bảo đúng mục đích, có dự toán được duyệt, đúng chế độ tiêu chuẩn định mức và hiệu quả. Kiểm soát chi NSNN theo Luật Ngân sách Nhà nước năm 2015 thuộc trách nhiệm của mọi cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan đến việc quản lý và sử dụng nguồn kinh phí từ NSNN, trong đó KBNN là cơ quan kiểm soát cuối cùng trước khi xuất quỹ. Đó chính là hình thức kiểm soát phòng ngừa, nhằm đảm bảo cho các khoản chi theo đúng nguyên tắc, đúng mục đích, ngăn ngừa sai sót nhầm lẫn.
Thứ tư, cần rà soát, sắp xếp, cơ cấu lại đối với một số chức danh, nâng cao hơn nữa năng lực, trình độ và số lượng đội ngũ cán bộ làm công tác thanh, kiểm tra, giám sát tài chính, bao gồm cả cán bộ thanh, kiểm tra, giám sát tại chỗ. Ngoài ra, cần tiếp tục chú trọng việc lựa chọn, bồi dưỡng và phân công cán bộ tham gia công tác thanh, kiểm tra, giám sát đảm bảo về cả chất lượng và số lượng.
Việc thực hiện tốt các nội dung trên sẽ góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thanh, kiểm tra, giám sát hoạt động tài chính đối với các đơn vị SNCL đào tạo, bồi dưỡng, cũng là góp phần vào việc đảm bảo an toàn tài sản của Nhà nước và thực hiện tốt nhiệm vụ được giao trong công tác quản lý tài chính, ngân sách./.
TS. Đinh Thị Hải Yến,
Trường Cán bộ quản lý giao thông vận tải
Chú thích:
(1), (2), (3) Điều 1; khoản 1, khoản 2, Điều 13 Nghị định số 82/2012/NĐ-CP ngày 09 tháng 10 năm 2012 về tổ chức và hoạt động thanh tra ngành Tài chính.
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị SNCL;
2. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2017 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp;
3. Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức;
4. Chính phủ, Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 24/01/2018 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/ 2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập;
5. Chính phủ, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị SNCL;
6. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04/02/2016 phê duyệt Kế hoạch cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2016 – 2020 với mục tiêu tiếp tục đẩy mạnh triển khai thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2011 – 2020;
7. PGS. TS. Phạm Văn Đăng, Đổi mới tài chính đơn vị sự nghiệp công và dịch vụ công, Đề tài khoa học cấp Bộ, 2012.