Nổi bật là lĩnh vực kinh tế liên tục tăng trưởng và là huyện đứng đầu tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế cao. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, đúng hướng. Tổng GTSX (không bao gồm KCN) giai đoạn 2016-2020 đạt 38.773 tỷ đồng; tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 14,12%, bằng 104,59% kế hoạch. Trong đó, công nghiệp - xây dựng tăng trưởng 20,97%, bằng 124% kế hoạch; nông - lâm nghiệp - thủy sản tăng trưởng 1,19%, bằng 20,59% kế hoạch; dịch vụ tăng trưởng 11,25%, đạt 73,53% kế hoạch. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực: Khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 61,28%, tăng 18,69%; dịch vụ chiếm 23,99%, tăng 0,64%; nông - lâm nghiệp - thủy sản chiếm 14,73%, giảm 18,09% so với năm 2015.
Trên địa bàn huyện hiện có 4 KCN quy hoạch với tổng diện tích 1100 ha, chiếm 75,5% tổng diện tích các KCN toàn tỉnh. Tính riêng từ năm 2016 đến hết tháng 5/2020, toàn huyện có 139 dự án đầu tư, trong đó có 121 dự án đầu tư trong nước tổng vốn đăng ký là 353,14 tỷ đồng; 9 dự án đầu tư nước ngoài với số vốn đăng ký là 19,183 triệu USD. Các dự án thu hút đầu tư đã đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Khu vực công nghiệp đã tạo việc làm thường xuyên cho 110.895 người, tăng 37.108 người so với năm 2015; trong đó, các KCN 95.475 người, ngoài KCN 15.420 người; thu nhập bình quân lao động đạt khoảng 6,5 triệu/người/tháng.
Huyện đạt chuẩn NTM đầu tiên của tỉnh Bắc Giang.
Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn huyện đạt được kết quả tốt. Thu NSNN trên địa bàn (không kể nguồn thu tiền sử dụng đất) đạt 1.787 tỷ đồng, tăng bình quân hàng năm 7,6%. Thu tiền sử dụng đất giai đoạn 2016 - 2020 đạt 4.887,8 tỷ đồng, đạt 143% dự toán; tăng bình quân hàng năm 8,6%, bằng 1086,2% giai đoạn 2011- 2015. Chi ngân sách được điều hành đảm bảo kế hoạch, tiết kiệm, đáp ứng được các nhu cầu chi đầu tư phát triển.
Đến năm 2019, Kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016- 2020 được xây dựng bằng 205% so với dự kiến thực hiện ban đầu. Ước tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong giai đoạn 2016- 2020 đạt 36.576 tỷ đồng, đạt 243,84% kế hoạch, bằng 231% cùng kỳ giai đoạn 2011- 2015. Trong đó nguồn vốn đầu tư công trên địa bàn huyện 3.910 tỷ, bằng 1116% giai đoạn 2011-2015. Xác định Hạ tầng giao thông là huyết mạch quan trọng để phát triển kinh tế do vậy trong nhiệm kỳ qua đã được tập trung ưu tiên đầu tư. Đường huyện hiện có 10 tuyến, đã cứng hoá được 56,358km/56,385km đạt 100%. Đường trục xã, liên xã đã cứng hoá 163,4km/163,4km đạt 100% (tăng 46,57% so đầu nhiệm kỳ); đường thôn, xóm đã cứng hóa 295,6km/311,2km đạt 94,9% (tăng 19,9% so đầu nhiệm kỳ). Đường trục chính nội đồng đảm bảo xe cơ giới vận chuyển hàng hóa thuận tiện 287,7km/354,4 km đạt 81,1% (tăng 40% so đầu nhiệm kỳ) nằm trong nhóm đầu của tỉnh về tỷ lệ cứng hóa giao thông. Điểm nổi bật là trong giai đoạn 2016- 2020, huyện đã xây dựng mới 12 tuyến đường với tổng chiều dài là 47,1 km, kinh phí 1.177 tỷ đồng. Nhằm đáp ứng kịp thời về mặt bằng cho các chủ đầu tư thực hiện các dự án, nhất là những dự án trọng điểm phát triển công nghiệp, giao thông, thương mại, dịch vụ góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, huyện đã tập trung chỉ đạo thực hiện công tác giải phóng mặt bằng các dự án phát triển kinh tế- xã hội trọng điểm của huyện như KCN Vân Trung, Quang Châu, CCN Hoàng Mai, KĐT Đình Trám Sen Hồ, KDC thương mại Bích Sơn...; hoàn thiện hạ tầng các dự án tái định cư, đất dịch vụ để giao đất cho nhân dân. Trong hơn 4 năm, toàn huyện đã giải phóng mặt bằng trên 623 ha đất các loại để thực hiện dự án, chi trả trên 856 tỷ đồng cho 14.528 lượt tổ chức, hộ cá nhân; giao 3.980 lô đất dịch vụ cho các hộ dân trên địa bàn 5 xã, thị trấn.
Xây dựng nông thôn mới đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, diện mạo nông thôn ngày càng thay đổi, chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn được nâng lên. Tháng 5/2018, huyện có 17/17 xã đạt chuẩn nông thôn mới, tháng 12/2018 được Thủ tướng Chính phủ công nhận là huyện đạt chuẩn nông thôn mới đầu tiên của tỉnh, vượt mục tiêu 02 năm. Hiện nay, huyện tiếp tục chỉ đạo xây dựng thôn NTM kiểu mẫu, hết tháng 11/2019 đã có 3 thôn được công nhận thôn NTM kiểu mẫu. Năm 2020, huyện phấn đấu xây dựng 1 xã NTM nâng cao và 4 thôn NTM kiểu mẫu; đến nay cơ bản các tiêu chí đã hoàn thành. Chương trình mỗi xã một sản phẩm thu được kết quả bước đầu với 7 sản phẩm đánh giá phân hạng đạt từ 3 sao trở lên; trong đó có 2 sản phẩm đạt hạng 4 và 5 sản phẩm đạt hạng 3 sao. Các vùng sản xuất rau theo tiêu chuẩn VietGAP; vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong nhà màng, nhà lưới; xây dựng thương hiệu rau củ quả Việt Yên, sản phẩm OCOP... Đã xây dựng 12 cánh đồng mẫu lúa và mầu với tổng diện tích 423,8ha.
Đến tháng 5/2020, toàn huyện duy trì 32 mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được hỗ trợ theo Nghị quyết số 46/NQ-HĐND của HĐND tỉnh, 89 mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được hỗ trợ từ ngân sách huyện, và đang tiếp tục xây dựng 12 mô hình trong năm 2020; có 46 hộ chăn nuôi lợn trên 100 con, ước năm 2020 có 19 trang trại lợn chăn nuôi tập trung ; 49 cơ sở chăn nuôi gia cầm trên 1000 con. Tỷ lệ chăn nuôi trang trại, gia trại và an toàn sinh học theo hướng VietGAP đạt 43%. Nuôi trồng thủy sản hướng đến tạo ra các sản phẩm an toàn; nhiều cơ sở đã mạnh dạn áp dụng mô hình nuôi cá siêu thâm canh “sông trong ao”- (IPA); hiện đã và đang cấp giấy chứng nhận VietGAP cho 33ha tại xã Nghĩa Trung và Thượng Lan. Ước tăng trưởng GTSX bình quân giai đoạn 2016-2020 thấp hơn giai đoạn 2011-2015 nhưng GTSX bình quân trên 1 ha đất canh tác nông nghiệp năm 2019 đạt 120 triệu đồng/ha, tăng 47,9 triệu đồng/ha so với năm 2015, đạt 101% so với kế hoạch. Toàn huyện có 98 điểm tập kết, trung chuyển rác tại các thôn và liên thôn, xây dựng 01 Khu xử lý rác tập trung của huyện và 3 khu xử lý rác cấp xã và toàn huyện có 6 lò đốt rác. Tỷ lệ thu gom chất thải rắn nông thôn 89,3%, tỷ lệ chất thải rắn đô thị thu gom được xử lý hợp vệ sinh 100%, tỷ lệ được xử lý đạt 100%. Tỷ lệ dân số nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh 99%, đạt 101% kế hoạch; tỷ lệ dân số thành thị được cấp nước sạch đạt 40%;
Cùng với đó, các lĩnh vực văn hóa - xã hội đạt kết quả tốt. Đến năm 2019, toàn huyện có 100% thôn, khu phố có nhà văn hóa và điểm sinh hoạt cộng đồng; 521 sân thể thao các loại và 17/17 hội trường văn hóa đa năng xã, thị trấn; 01 quảng trường trung tâm huyện bảo đảm phục vụ cho các sự kiện lớn. Ước tỷ lệ hộ gia đình được công nhận danh hiệu Gia đình văn hoá năm 2020 đạt 89%, bằng 101% so với kế hoạch; làng, tổ dân phố được công nhận danh hiệu văn hóa đạt 76,12%, bằng 101% so với kế hoạch; 01 thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị, 15/15 xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới.
Huyện Việt Yên hiện có 62 trường học, dự kiến cuối năm 2020, tỷ lệ kiên cố hóa đạt 98% và 60/62 trường đạt chuẩn quốc gia. Chất lượng giáo dục luôn luôn duy trì trong nhóm các huyện, thành phố dẫn đầu; năm 2019, kết quả thi học sinh giỏi xếp thứ 3, điểm thi vào lớp 10 đứng thứ nhất toàn tỉnh. 100% học sinh hoàn thành chương trình tiểu học vào lớp 6; học sinh tốt nghiệp THCS hằng năm đạt trên 98%.Bên cạnh đó, công tác giảm nghèo được chú trọng theo hướng bền vững. Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân được quan tâm chú trọng. Quốc phòng an ninh được giữ vững.
Trong nhiệm kỳ qua cùng với tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội, Việt Yên đặc biệt coi trọng công tác xây dựng đảng và hệ thống chính trị. Với phương châm hành động Đoàn kết - Dân chủ - Đổi mới - Phát triển, nhiệm kỳ 2021- 2025, UBND huyện Việt Yên tiếp tục xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đổi mới; phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, tập trung huy động mọi nguồn lực; đẩy mạnh phát triển kinh tế theo cơ cấu nâng cao tỷ trọng công nghiệp- dịch vụ, phát triển tiểu thủ công nghiệp; coi trọng lĩnh vực nông nghiệp nông dân và nông thôn, đồng thời huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư; thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển của huyện mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXIII, nhiệm kỳ 2021- 2026 đề ra,"đưa huyện Việt Yên trở thành thị xã trong thời gian sớm nhất”.
Kim Dung