Để phục vụ cho nghiên cứu này, 22 khu vực bảo tồn đã được lựa chọn làm địa điểm trọng tâm dựa trên lịch sử phân bố loài gấu, những dữ liệu vốn có về sự hiện diện của loài gấu, loại môi trường sống, khoảng cách từ khu dân cư đô thị lớn, khoảng cách từ các khu vực rừng lân cận và sự phân bố các địa điểm trên khắp Việt Nam. Từ tháng 4/2015 đến tháng 1/2016, đơn vị thực hiện khảo sát là đại học Vinh đã phỏng vấn 1,441 cá nhân ở 106 làng gần với 22 khu vực bảo tồn, kết quả chỉ ra rằng quần thể gấu đã bắt đầu suy giảm trong giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2005, do bị săn bắt và đánh bẫy. Đây cũng chính là giai đoạn mà ngành kinh doanh nuôi nhốt gấu lấy mật bùng nổ ở Việt Nam.
Trong khoảng thời gian từ năm 1999 đến năm 2005, số lượng gấu trong các trại nuôi nhốt gấu lấy mật ở Việt Nam tăng hơn mười lần, từ khoảng 400 cá thể gấu lên tới hơn 4,000. Các cá thể gấu trong các trại gấu chủ yếu là gấu đen châu Á, hay còn gọi là gấu ngựa, và thường xuyên bị trích hút mật đầy đau đớn và thiếu vệ sinh để làm thuốc y học cổ truyền.
Murphy_ Gấu chó con được Kiểm lâm Sơn La giải cứu thoát khỏi tay những kẻ buôn lậu
Báo cáo mới cũng công bố, hiện Việt Nam không có một khu bảo tồn nào được khảo sát có quần thể gấu khỏe mạnh. Số lượng gấu đã bị suy giảm nghiêm trọng, tuy rằng thỉnh thoảng vẫn người dân báo nhìn thấy gấu trong vài năm gần đây. Sự tồn tại của gấu ở một số khu vực đã được xác nhận bằng các bẫy ảnh và các hoạt động săn bắt gấu hoang dã. Tuy nhiên, các cá thể gấu được bẫy ảnh chụp lại hoặc bị bắt trộm trong những năm vừa qua có thể là những cá thể gấu cuối cùng còn lại trên địa bàn và quần thể gấu hầu như không có khả năng tự phục hồi nếu không có đầu tư ngay lập tức vào các công tác can thiệp bảo tồn, chẳng hạn bảo vệ rừng và dịch chuyển gấu.
Ông Brian Crudge, Trưởng Dự án và Quản lý Chương trình Nghiên cứu của Tổ chức Free the Bears, chia sẻ: "Kết quả khảo sát đã đóng góp thêm bằng chứng, chứng minh rằng việc nuôi nhốt gấu lấy mật không hề có giá trị bảo tồn đối với quần thể gấu hoang dã và nhiều khả năng là còn góp phần làm tăng nhu cầu và đẩy mạnh nạn săn bắn gấu."
Ông Matt Hunt, Tổng Giám đốc Điều Hành của Tổ chức Free the Bears, Đồng Chủ tịch Nhóm Chuyên gia về Gấu đen Châu Á thuộc Nhóm Chuyên gia Gấu của Liên hiệp Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), nhận định: "Lần đầu tiên, các kết quả khảo sát đã cho thấy rõ rằng việc nuôi nhốt gấu lấy mật là một bước đi sai lầm. Hy vọng duy nhất của chúng ta là quần thể gấu hoang dã vẫn còn khả năng tự phục hồi ở Việt Nam, và các quốc gia còn tồn tại nạn nuôi nhốt gấu lấy mật khác sẽ rút kinh nghiệm và chấm dứt nạn nuôi gấu lấy mật trước khi quá muộn."
Các khu vực được khảo sát
Tiến sỹ Tuấn Bendixsen, Trưởng Đại diện tại Việt Nam của Tổ chức Động vật Châu Á, cho rằng: "Gấu đang phải chịu bạo hành và khổ sở trong những chiếc lồng sắt tại các trại nuôi gấu. Sự tồn tại của ngành công nghiệp tàn bạo này không mang lại kết quả gì tốt đẹp, và mọi thứ chỉ càng tệ hơn đối với gấu trên cả phương diện phúc lợi và bảo tồn. Hiện nay số lượng gấu ngựa đã ít hơn trước đây rất nhiều. Việc nuôi nhốt gấu lấy mật đã thất bại trên mọi phương diện, Việt Nam và các quốc gia châu Á cần rút ra bài học và phải quyết tâm đảm bảo tương lai cho các sinh vật này ngoài tự nhiên.”
Sau đây là bảng số lượng cuộc phỏng vấn tại mỗi Khu bảo tồn, và phần trăm người được phỏng vấn cho biết họ nhìn thấy gấu*
|
Khu bảo tồn
|
Số làng
|
Số lần phỏng vấn
|
Số lần phỏng vấn ghi nhận có thấy gấu
|
Số lần phỏng vấn ghi nhận có thấy gấu với ngày cụ thể
|
1
|
Vườn quốc gia Bù Gia Mập
|
4
|
60
|
51 [85%]
|
49 [82%]
|
2
|
Vườn quốc gia Cát Tiên
|
5
|
70
|
43 [61%]
|
41 [59%]
|
3
|
Vườn quốc gia Chư Mom Ray
|
5
|
67
|
45 [67%]
|
27 [40%]
|
4
|
Khu đề xuất bảo tồn thiên nhiên Chư Proong
|
4
|
60
|
51 [85%]
|
42 [70%]
|
5
|
Vườn quốc gia Chư Yang Sin
|
4
|
67
|
50 [75%]
|
34 [51%]
|
6
|
Vườn quốc gia Hoàng Liên
|
4
|
31
|
23 [74%]
|
20 [65%]
|
7
|
Khu bảo tồn thiên nhiên Sao La Huế
|
5
|
69
|
66 [96%]
|
53 [77%]
|
8
|
Vườn quốc gia Kon Ka Kinh
|
5
|
66
|
38 [58%]
|
30 [45%]
|
9
|
Khu bảo tồn loài, sinh cảnh Mù Cang Chải
|
6
|
57
|
41 [72%]
|
27 [47%]
|
10
|
Khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé
|
4
|
69
|
61 [88%]
|
60 [87%]
|
11
|
Khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Linh
|
4
|
53
|
35 [66%]
|
26 [49%]
|
12
|
Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng
|
6
|
71
|
58 [82%]
|
48 [68%]
|
13
|
Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu
|
4
|
73
|
55 [75%]
|
50 [68%]
|
14
|
Vườn quốc gia Pù Mát
|
5
|
83
|
75 [90%]
|
69 [83%]
|
15
|
Khu bảo tồn thiên nhiên Sao La Quảng Nam
|
5
|
79
|
70 [89%]
|
25 [32%]
|
16
|
Khu bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh
|
7
|
81
|
46 [57%]
|
16 [20%]
|
17
|
Khu bảo tồn thiên nhiên Sốp Cộp
|
5
|
54
|
51 [94%]
|
50 [93%]
|
18
|
Khu bảo tồn thiên nhiên Tà Đùng
|
4
|
59
|
32 [54%]
|
16 [27%]
|
19
|
Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Côn Lĩnh
|
5
|
60
|
54 [90%]
|
54 [90%]
|
20
|
Vườn quốc gia Vũ Quang
|
5
|
75
|
63 [84%]
|
55 [73%]
|
21
|
Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên
|
5
|
67
|
67[100%]
|
60 [90%]
|
22
|
Vườn quốc gia Yok Đôn
|
5
|
70
|
62 [89%]
|
43 [61%]
|
*Tổng số lần phỏng vấn thể hiện số bảng dữ liệu phỏng vấn được thu thập từ mỗi khu bảo tồn. Hai cột tiếp theo thể hiện số lượng và tỉ lệ phần trăm những cuộc phỏng vấn mà trong đó có ít nhất một lần thấy gấu được ghi nhận và ít nhất một lần thấy gấu được ghi nhận với thông tin về ngày
L.A