Hoạt động thanh tra cũng đã kịp thời chấn chỉnh các sai lệch trong quá trình tổ chức thực hiện các quyết định quản lý, các cơ chế, chính sách, pháp luật; phát hiện, xử lý và kiến nghị xử lý kịp thời nhiều cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật; kết luận và kiến nghị xử lý nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, giải oan và minh oan cho nhiều người, góp phần quan trọng vào việc tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong quản lý Nhà nước, ổn định tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, thúc đẩy quá trình đổi mới, phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, thời gian qua, hoạt động thanh tra có nhiều khó khăn, thách thức, vẫn còn tình trạng trồng chéo, trùng lắp, vừa bỏ trống những nơi, những chỗ cần được tiến hành thanh tra dẫn đến sai phạm không được phát hiện, xử lý kịp thời; tổ chức và lực lượng thanh tra khá đông, dàn trải nhưng không mạnh; chất lượng, hiệu quả, hiệu lực thanh tra không cao; thời gian tiến hành và ban hành kết luận thanh tra thường kéo dài so với quy định; nhiều báo cáo, kết luận, quyết định thanh tra chưa bảo đảm tính chính xác, khách quan, nhiều kiến nghị không mang tính khả thi. Để góp phần khắc phục những khó khăn, thách thức đó cần phải sớm tìm kiếm các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thanh tra.
Quan niệm về hiệu quả hoạt động thanh tra
Hiểu một cách chung nhất, hiệu quả là hiệu số của việc so sánh, đánh giá giữa nguồn lực, điều kiện phải bỏ ra, phải đáp ứng với kết quả do chính nguồn lực, điều kiện đó mang lại. Nội hàm của cụm từ “hiệu quả hoạt động thanh tra” có nhiều cách hiểu khác nhau. Nhưng nếu tổng hợp các nguồn lực (kinh phí, phương tiện, thời gian, nhân lực, chi phí quản lý ...) chi cho hoạt động thanh tra thấp mà vẫn đáp ứng được yêu cầu, mục đích thanh tra thì có thể hiểu hoạt động thanh tra đó là có hiệu quả. Ngược lại, mục đích, yêu cầu thanh tra đó vẫn đạt được nhưng phải đầu tư với nguồn lực lớn hơn thì hoạt động thanh tra đó sẽ có hiệu quả chưa hoặc không cao. Như vậy, hiểu một cách giản đơn nhất là muốn nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra phải nghĩ đến việc tạo dựng môi trường chính trị, pháp lý, xã hội để giảm thiểu và sử dụng các nguồn lực đầu tư cho hoạt động thanh tra một cách tối ưu nhất. Hiệu quả hoạt động thanh tra cao hay thấp sẽ do chất lượng các cuộc thanh tra quyết định.
Về phương diện triết học, chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một sự vật, sự việc; còn số lượng là con số biểu thị nhiều hay ít. Từ phương diện này dễ nhận thấy sự khác nhau căn bản giữa hai cụm từ “chất lượng” và “số lượng”. Con số hàng vạn cuộc thanh tra, kiểm tra được tiến hành trong một năm hoàn toàn chưa phản ánh được giá trị, vai trò, ý nghĩa, hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thanh tra nói chung, của các cuộc thanh tra nói riêng. Có nghĩa là chỉ thống kê số lượng cuộc thanh tra được tiến hành trong kỳ báo cáo sẽ không có ý nghĩa.
Báo cáo công tác thanh tra chỉ thu hút được người đọc, người nghe khi có những nội dung viết về sai phạm, khuyết điểm, khiếm khuyết, sai lệch giữa thực tiễn với yêu cầu của quản lý được phát hiện qua thanh tra và kết quả xử lý, kiến nghị xử lý những sai phạm, khuyết điểm, khiếm khuyết, sai lệch đó. Những nội dung này chưa phản ánh toàn diện “phẩm chất”, “giá trị” của hoạt động thanh tra, nhưng phần nào đã mô tả kết quả thanh tra bằng những con số “biết nói”, chỉ ra những quyết định, quy định, cơ chế, chính sách nào không còn phù hợp với yêu cầu thực tiễn; phát hiện những sai phạm tính ra được bằng tiền, bằng mét vuông đất, đã và kiến nghị thu hồi được bao nhiêu tiền, bao nhiêu mét vuông đất; xử lý vi phạm hành chính bao nhiêu vụ việc, trường hợp; kiến nghị cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền xem xét, xử lý trách nhiệm hành chính, trách nhiệm chính trị đối với tập thể, đơn vị, cá nhân có sai phạm, khuyết điểm; kiến nghị chuyển cơ quan điều tra xem xét, xử lý trách nhiệm hình sự bao nhiêu vụ việc, bao nhiêu người... Những con số biết nói như trên được tổng hợp từ các cuộc thanh tra cụ thể. Những con số đó phần nào khắc họa “phẩm chất”, “giá trị” cuộc thanh tra hay nói một cách trực diện, đó là phản ánh chất lượng cuộc thanh tra.
Theo Huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “thường những chỗ có vấn đề các chú (thanh tra) mới đến”. Như vậy, một cuộc thanh tra nào đó không phát hiện được sai phạm, khuyết điểm, thậm chí không chỉ ra được một sai lệch, khiếm khuyết nào, không đưa ra được đề xuất, kiến nghị nào nhằm sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật, quyết định quản lý thì khó có thể đánh giá đó là cuộc thanh tra có chất lượng. Nhưng ngược lại, cuộc thanh tra phát hiện nhiều sai phạm, thu hồi nhiều tiền, tài sản, làm rõ trách nhiệm và xử lý nhiều hành vi sai phạm, khuyết điểm, bao gồm cả trách nhiệm hành chính, kỷ luật, hình sự cũng chưa hẳn là cuộc thanh tra có chất lượng cao, nếu như bỏ qua tính mục đích, tính tuân thủ, yếu tố kịp thời, hiệu quả trong hoạt động thanh tra.
Thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý nói chung, của quản lý Nhà nước nói riêng. Vì thế tính mục đích trong hoạt động thanh tra trước hết và quan trọng nhất đó là phòng ngừa, phát hiện, xử lý hoặc kiến nghị xử lý kịp thời, nghiêm minh các sai phạm, khiếm khuyết với chi phí tổng quát ít nhất có thể. Từ thực tiễn hoạt động thanh tra cho thấy, để đưa ra những nhận xét, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của đối tượng thanh tra luôn phải lấy pháp luật làm thước đo, làm tiêu chí để so sánh, đánh giá. Nếu pháp luật chưa quy định thì cần tìm tiền lệ, thông lệ để so sánh, đánh giá. Nếu pháp luật chưa quy định, mà tiền lệ, thông lệ cũng chưa có thì phải xem xét tính không vụ lợi của hành vi, việc làm đó để xem xét, đánh giá. Đó là lý thuyết về đánh giá trong hoạt động thanh tra. Tuy nhiên, việc xử lý, kiến nghị xử lý sai phạm, khiếm khuyết được phát hiện qua hoạt động thanh tra không thuần túy chỉ dựa vào pháp luật, tiền lệ hay thông lệ, mà còn phải tính tới các yếu tố khác như chính trị, xã hội, lợi ích của cộng đồng, của quốc gia, dân tộc.
Nguyên Phó Tổng Thanh tra Chính phủ Trần Đức Lượng trong buổi công bố quyết định thanh tra VCCI, tháng 7/2013.
Các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thanh tra
Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về thanh tra
Không thể phủ nhận thực tế, trải qua hơn 70 năm hình thành và phát triển, ngành Thanh tra và hệ thống pháp luật về thanh tra đã có bước phát triển phù hợp với yêu cầu của quản lý Nhà nước trong mỗi giai đoạn bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, để phù hợp với Hiến pháp 2013, đáp ứng yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới, cải cách tổ chức, bộ máy Nhà nước phù hợp với yêu cầu của sự phát triển đất nước trong điều kiện mới thì cơ chế, chính sách, pháp luật về thanh tra rất cần được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện bảo đảm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra và cụ thể là nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra. Như đã luận giải, pháp luật về thanh tra hiện hành quy định tổ chức và hoạt động thanh tra mang tính một chiều, nghiêng nặng là thiết chế trong quản lý Nhà nước; tổ chức và hoạt động thanh tra phụ thuộc gần như toàn bộ vào người đứng đầu cơ quan quản lý hành chính Nhà nước cùng cấp; nhấn mạnh vai trò phục vụ hoạt động chỉ đạo, điều hành trong quản lý hành chính Nhà nước, bảo vệ quyền khiếu nại, tố cáo của người dân; chưa chú trọng đến vai trò kiểm soát quyền lực Nhà nước và bảo vệ quyền con người theo tinh thần Hiến pháp 2013. Chính vì vậy mà tính chủ động, linh hoạt, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức thanh tra chưa được phát huy mạnh mẽ; tính độc lập, chủ động trong việc xây dựng kế hoạch thanh tra hàng năm, trong việc lựa chọn đối tượng, nội dung, phạm vi thanh tra bị hạn chế; tính liên kết nghiệp vụ trong chỉ đạo, điều hành hoạt động thanh tra theo ngành, theo lĩnh vực quản lý Nhà nước không cao; mối liên kết hệ thống để tăng cường sức mạnh, phòng ngừa rủi ro trong hoạt động thanh tra không được phát huy; các nguồn lực (con người, phương tiện, kinh phí v.v.) bảo đảm cho hoạt động thanh tra hoàn toàn phụ thuộc vào cơ quan quản lý Nhà nước cùng cấp; việc xử lý các sai phạm qua thanh tra phát hiện gần như phụ thuộc hoàn toàn vào người đứng đầu cơ quan quản lý hành chin Nhà nước cùng cấp; cơ chế, chính sách, pháp luật xác định địa vị chính trị và vị trí pháp lý của người đứng đầu cơ quan thanh tra Nhà nước chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan và của người đứng đầu cơ quan thanh tra Nhà nước các cấp; nhiều quy định trong pháp luật thanh tra còn mang tính xung đột lợi ích làm giảm hiệu lực, hiệu quả thanh tra nhưng chưa được sửa đổi, khắc phục. Thực trạng này có nguyên nhân từ sự nhận thức về vị trí, vai trò của tổ chức và hoạt động thanh tra. Đa số những người đứng đầu cơ quan Nhà nước thực hiện quyền hành pháp luôn nhấn mạnh vai trò của thanh tra như một công cụ, phương tiện của quản lý hành chính Nhà nước. Chưa thấy hết vai trò của thanh tra còn là một trong những thiết chế quan trọng đánh giá việc thực thi, kiểm soát việc thực hiện quyền lực Nhà nước và bảo vệ quyền con người. Đồng thời thông qua thực hiện chức năng này, thanh tra còn hướng tới đánh giá cả những cơ chế, chính sách, pháp luật, quyết định quản lý hiện hành có cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hay không để kiến nghị cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền xem xét, xử lý nhằm không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước.
Trên đây là những nội dung cơ bản, thiết yếu cần sớm được nghiên cứu, đề xuất việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về thanh tra nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra.
Đổi mới sự chỉ đạo, điều hành hoạt động thanh tra
Xã hội càng phát triển, nền kinh tế càng hội nhập thì các quan hệ xã hội càng đa dạng, phức tạp. Cùng với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ, sự biến đổi của môi trường tự nhiên, môi trường sinh tồn, con người muốn tồn tại phải biết thích nghi trong môi trường ấy. Quản lý nói chung và quản lý Nhà nước nói riêng cũng cần có sự đổi mới trong bối cảnh khách thể quản lý đã, đang và sẽ thay đổi do chính môi trường tự nhiên và xã hội đòi hỏi. Xu hướng chung của đổi mới quản lý là hướng tới quản lý, quản trị rủi ro, nghĩa là khu vực nào, lĩnh vực quản lý nào, địa bàn nào có vấn đề, tiềm ẩn rủi ro cao thì chủ thể quản lý phải hướng đến với sự quan tâm cao hơn. Hoạt động thanh tra thường hướng đến chỗ có vấn đề. Vì vậy, việc đổi mới sự chỉ đạo, điều hành hoạt động thanh tra cần bắt đầu từ khâu định hướng hoạt động thanh tra. Nếu như trước đây định hướng hoạt động thanh tra chủ yếu nhằm mục tiêu phục vụ quản lý thì nay theo tinh thần Hiến pháp 2013, hoạt động thanh tra không chỉ phục vụ chủ thể quản lý mà phải hướng tới kiểm soát việc thực thi quyền lực Nhà nước - quyền hành pháp và bảo vệ quyền con người.
Muốn vươn tới mục tiêu này thì việc rà soát những chỗ có vấn đề, rồi lựa chọn đối tượng thanh tra, nội dung và phạm vi thanh tra là điều trọng yếu thứ hai sau định hướng hoạt động thanh tra. Kiểm soát việc thực thi quyền lực Nhà nước và bảo vệ quyền con người sẽ luôn đụng chạm đến người có chức, có quyền, có cả thế và lực trong xã hội. Thanh tra thường hướng đến những chỗ có vấn đề nên phải lường trước mọi sự cám dỗ, thách thức để vượt qua và xử lý hiệu quả sự phản kháng, đối phó công khai hoặc không công khai của đối tượng thanh tra, của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan. Vì thế người đứng đầu cơ quan thanh tra, người ra quyết định thanh tra phải đủ bản lĩnh, kinh nghiệm và năng lực để vượt qua những thách thức này.
Nội dung tiếp theo phải chú ý là việc xử lý tình huống trong hoạt động thanh tra. Tình huống trong hoạt động thanh tra phải xử lý thường là những tình tiết, hành vi, sự kiện không dự liệu trước được và/hoặc vượt quá thẩm quyền của người tiến hành thanh tra, thậm chí của người ra quyết định thanh tra, người đứng đầu cơ quan thanh tra. Tình huống trong hoạt động thanh tra ở đây bao gồm cả tình huống trong quá trình tiến hành thanh tra, tình huống trong chỉ đạo kết thúc thanh tra và xử lý sau thanh tra. Xử lý tình huống trong thanh tra không chỉ đề cao tính trách nhiệm là đủ mà còn đòi hỏi cả sự dũng cảm vì lợi ích quốc gia, dân tộc, kỹ năng chuyên môn, kỹ năng chỉ đạo, điều hành của người có thẩm quyền. Thực tế chỉ ra rằng để vượt qua những thách thức trong xử lý tình huống, trong chỉ đạo, điều hành hoạt động thanh tra, người đứng đầu cơ quan thanh tra đã phải trả giá bằng cả sinh mệnh chính trị của mình, của gia đình mình.
Nội dung tiếp theo về đổi mới sự chỉ đạo, điều hành hoạt động thanh tra, đó là đổi mới công tác giám sát, kiểm tra hoạt động thanh tra và công tác phản biện, thẩm định kết quả thanh tra. Cần tăng cường vai trò giám sát, kiểm tra của đơn vị chủ trì cuộc thanh tra, của người ra quyết định thanh tra, của đối tượng thanh tra, của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến nội dung thanh tra đối với người tiến hành thanh tra. Cùng với đó là sự giám sát chéo nhau giữa các thành viên trong Đoàn thanh tra thông qua hoạt động thẩm định, phản biện nội dung thanh tra của chính các thành viên Đoàn thanh tra. Tổ chức, đơn vị có chức năng giám sát, thẩm định tập trung vào khâu phản biện, thẩm định kết quả thanh tra và xử lý sau thanh tra. Cần phải nhận thức việc thẩm định, phản biện kết quả thanh tra và theo dõi, đôn đốc, xử lý sau thanh tra cũng là những phương thức khác nhau của công tác giám sát hoạt động thanh tra.
Bồi dưỡng, tăng cường năng lực cho những người tiến hành thanh tra
Đặc điểm, tính chất của hoạt động thanh tra đòi hỏi người tiến hành thanh tra vừa phải có phẩm chất, đạo đức trong sáng, vừa phải có năng lực hoàn thành nhiệm vụ. Điều này đòi hỏi người tiến hành thanh tra, đặc biệt là trưởng đoàn thanh tra phải am hiểu chính sách, pháp luật, hiểu biết về quản lý hành chính Nhà nước, thành thạo kỹ năng xem xét, đánh giá và có kiến thức về chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ liên quan tới nội dung thanh tra. Trưởng đoàn thanh tra còn phải nhuần nhuyễn kỹ năng lãnh đạo, quản lý, có năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ, kinh nghiệm xử lý tình huống và đủ bản lĩnh vượt qua những thách thức (sức ép từ nhiều phía tác động vào hoạt động của Đoàn thanh tra) trong hoạt động thanh tra. Đối tượng thanh tra ở đây là cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân đang có vấn đề. Thường là những chỗ có vấn đề mới cần thanh tra, việc chuyển hướng từ quản lý, thanh tra theo phương thức truyền thống sang quản lý hay thanh tra rủi ro thì sức ép là có thật. Vì vậy, khả năng phải ứng biến với sự đối phó, phản kháng từ đối tượng thanh tra và những người có liên quan luôn là nguy cơ hiện hữu.
Người tiến hành thanh tra không phải ai cũng luôn có sẵn những kiến thức, hiểu biết nêu trên, không phải cái gì cũng biết, cái gì cũng tinh thông. Có người giỏi về kỹ năng, nghiệp vụ thanh tra nhưng chưa tinh thông về chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ liên quan đến nội dung thanh tra và ngược lại. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng thanh tra nói riêng và hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra nói chung, thì việc bồi dưỡng, tăng cường năng lực tổng thể bằng nhiều hình thức, phương thức đa dạng, phong phú cho những người tiến hành thanh tra là yêu cầu luôn phải đặt ra. Từ đào tạo chính quy đến bồi dưỡng, tập huấn theo kế hoạch của cơ quan, tổ chức, đơn vị đến việc tự nghiên cứu, học tập, cập nhật, bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ, trau dồi kỹ năng, nghiệp vụ của mỗi cá nhân; học thông qua trường lớp, học thông qua công việc. Thực tiễn hoạt động thanh tra cho thấy: Mỗi cuộc thanh tra là một bài tập lớn, hoàn thành bài tập này có ý nghĩa thiết thực hơn nhiều so với các chứng chỉ bồi dưỡng được cấp. Kỹ năng thanh tra là tổng thể các yếu tố giúp cho việc hoàn thành nhiệm vụ thanh tra. Vì vậy, kỹ năng thanh tra đa phần được tích lũy thông qua trải nghiệm thực tế tiến hành thanh tra. Chính môi trường thanh tra gợi mở cho người tiến hành thanh tra biết mình cần những kiến thức gì và cập nhật, bổ sung những kiến thức ấy như thế nào, bằng cách nào cho hiệu quả nhất.
Thái độ hợp tác của đối tượng thanh tra, của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan
Nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động thanh tra, ngoài việc quy định mục đích, nguyên tắc, những điều không được làm trong hoạt động thanh tra, pháp luật nói chung và pháp luật thanh tra nói riêng có những quy định khá cụ thể, logic, đồng bộ về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thanh tra. Thường là quyền của chủ thể tiến hành thanh tra sẽ là nghĩa vụ của đối tượng thanh tra, của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan và ngược lại, quyền của đối tượng thanh tra, của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan sẽ là nghĩa vụ của chủ thể tiến hành thanh tra. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố không mang tính tích cực chi phối, trong đó có yếu tố nhận thức và ý thức pháp luật mà không phải lúc nào mối quan hệ giữa người tiến hành thanh tra với đối tượng thanh tra, với cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan cũng xuôi chèo, mát lái, thậm chí trong không ít trường hợp, các bên còn cố ý gây khó dễ cho nhau trong quá trình thanh tra. Chủ thể tiến hành thanh tra thì nhũng nhiễu, vòi vĩnh, hạch sách, dọa dẫm. Đối tượng thanh tra chậm trễ trong việc cung cấp thông tin, hồ sơ, tài liệu, bố trí người làm việc không đúng thẩm quyền, báo cáo, giải trình vòng vo, gây khó khăn, cản trở hoạt động thanh tra, kiểm tra, xác minh... Những tình huống như vậy cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả hoạt động thanh tra. Vì vậy, có được thái độ hợp tác, xây dựng giữa người tiến hành thanh tra với đối tượng thanh tra, với cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả thanh tra.
Để có được thái độ hợp tác tích cực, xây dựng giữa các bên trong hoạt động thanh tra, trước hết, đòi hỏi người tiến hành thanh tra phải có quan điểm, thái độ đúng mực, kiên nhẫn lắng nghe, phương pháp làm việc khoa học, không vòi vĩnh, không nhũng nhiễu, không vụ lợi, không tạo áp lực vô lý lên đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Việc tiến hành thanh tra phải tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc, trình tự, thủ tục được pháp luật quy định; việc sử dụng các quyền hạn phải thỏa mãn các điều kiện mà pháp luật ràng buộc và phải chú ý tính đến hậu quả không mong muốn phát sinh từ việc sử dụng quyền hạn có tính cưỡng chế mạnh trong quá trình thanh tra của trưởng đoàn thanh tra, của người ra quyết định thanh tra. Ngoài ra các phương pháp tâm lý, tư tưởng, thuyết phục, dân chủ, lắng nghe, tôn trọng quyền giải trình của đối tượng thanh tra trong quá trình tiến hành thanh tra cũng giúp cải thiện rất nhiều thái độ ứng xử giữa các bên trong hoạt động thanh tra.
Các yếu tố khác bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả thanh tra
Hoạt động thanh tra là một loại hoạt động công vụ và thường được tiến hành ngoài công sở của cơ quan chủ trì tiến hành thanh tra. Để bảo đảm tuân thủ nguyên tắc chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời, ngoài việc thu thập, nghiên cứu, đối chiếu, so sánh hồ sơ, tài liệu, thông tin, vật chứng, hoạt động thanh tra còn phải tiến hành kiểm tra, xác minh tại chỗ việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của đối tượng thanh tra. Thanh tra là phải đến tận nơi, phải mắt thấy, tai nghe để đưa ra những đánh giá, nhận xét bảo đảm tính chính xác, khách quan. Nếu vẫn chưa đủ sự tin cậy thì người ra quyết định thanh tra còn có thể/cần phải thông qua trưng cầu giám định để bảo đảm kết luận thanh tra đáp ứng đầy đủ các yêu cầu được pháp luật quy định. Ngoài các yếu tố được luận giải ở trên, chất lượng, hiệu quả hoạt động thanh tra còn bị chi phối bởi các yếu tố khác như kinh phí, phương tiện, thời gian, các trang thiết bị, văn phòng phẩm, nhu yếu phẩm cần thiết khác phục vụ cho sinh hoạt và làm việc của các thành viên đoàn thanh tra trong giai đoạn trực tiếp tiến hành thanh tra, kiểm tra, xác minh vụ việc. Đối với vụ việc thanh tra đặc biệt phức tạp, nhạy cảm được tiến hành hoặc phải kiểm tra, xác minh ở vùng sâu, vùng xa, hải đảo, địa bàn có nguy cơ rủi ro cao còn phải có phương án bảo đảm an ninh, an toàn hồ sơ, tài liệu, phương tiện, tài sản, nhân sự cho đoàn thanh tra. Những vụ việc thanh tra đặc biệt phức tạp, nhạy cảm, phải kiểm tra, xác minh ở phạm vi rộng, ở vùng đi lại khó khăn thường phát sinh kinh phí, kéo dài thời gian, bổ sung thêm lực lượng, phương tiện, trang thiết bị, văn phòng phẩm, nhu yếu phẩm so với dự liệu ban đầu. Vì vậy, cơ quan chủ trì thanh tra, người ra quyết định thanh tra, trưởng đoàn thanh tra phải có các phương án dự phòng, đáp ứng kịp thời yêu cầu khách quan, chính đáng của hoạt động thanh tra nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thanh tra./.
TS. Trần Đức Lượng
Nguyên Phó Tổng Thanh tra Chính phủ