Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Bước vào Đông Xuân 1953, sau thất bại trong kế hoạch Đờ Lát đờ Tátxinhi, Pháp cử tướng Nava sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Sau khi khảo sát và nghiên cứu kỹ tình hình, Nava đề ra kế hoạch tác chiến gồm 2 giai đoạn: Trong chiến cuộc 1953-1954, giữ thế phòng thủ, tránh giao chiến lớn ở phía Bắc vĩ tuyễn 18, tiến công ổn định ở miền Trung và miền Nam Đông Dương; trong chiến cuộc 1954-1955, sau khi đạt ưu thế quân cơ động sẽ thực hiện tiến công ở phía Bắc nhằm tạo ra một tình hình quân sự cho phép đưa ra một giải pháp chính trị thích hợp để giải quyết chiến tranh.
Mục đích của kế hoạch Nava là tập trung một lực lượng cơ động lớn ở đồng bằng Bắc Bộ sẵn sàng đối phó với cuộc tiến công lớn của chủ lực ta; mặt khác dùng lực lượng cơ động đánh chiếm vùng tự do liên khu 5 và đối phó với chiến tranh du kích đang phát triển mạnh ở các vùng tạm chiếm, buộc chủ lực của ta phải bị động đề phòng, không dám tiến quân đi hướng khác.
Về phía ta, để đối phó lại kế hoạch Nava, Bộ Chính trị xác định: “Lấy Tây Bắc làm hướng chính, các hướng khác là phối hợp. Hướng chính hiện nay không thay đổi. Phép dùng binh là phải thiên biến vạn hóa”(1). Với phương châm “tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta. Đánh ăn chắc, đánh chắc thắng, đánh tiêu diệt, chọn nơi địch sơ hở mà đánh, chọn nơi địch tương đối yếu mà đánh. Giữ vững chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán”(2). Sự chỉ đạo chiến lược sáng suốt của Đảng đã buộc địch phải phân tán lực lượng để đối phó với các đòn tiến công dồn dập của ta, kế hoạch Nava bước đầu bị phá sản. Trong thế bị động, lúng túng Nava quyết định đem quân đánh chiếm Điện Biên Phủ và xây dựng Điện Biên Phủ trở thành tập đoàn cứ điểm mạnh theo kế hoạch từ 5-6 tiểu đoàn có thể tăng lên 10-12 tiểu đoàn gồm các đơn vị bộ binh, pháo binh, công binh, thiết giáp, không quân tinh nhuệ nhất Đông Dương. Lúc cao điểm, lực lượng tập trung ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ lên đến 16.200 quân, bố trí thành tập đoàn 49 cứ điểm, xây dựng thành 8 cụm với hỏa lực nhiều tầng, hợp thành 3 phân khu bảo vệ lẫn nhau. Trong tính toán của Nava, với Điện Biên Phủ, quân Pháp sẽ khống chế vùng Tây Bắc, bảo vệ Thượng Lào và như cái “nhọt hút độc” sẽ thu hút và kìm chế quân chủ lực Việt Minh, tạo ra thế cân bằng trên toàn chiến trường Đông Dương. Với cách bài binh bố trận như thế, Nava tin tưởng rằng, Điện Biên Phủ là pháo đài bất khả xâm phạm.
Thực hiện quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, trong điều kiện “lấy nhỏ đánh lớn, lấy yếu đánh mạnh”, đòi hỏi Đảng ta phải huy động sức mạnh của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại để tạo ra sức mạnh tổng hợp nhằm đánh bại những cố gắng cuối cùng của Địch. Thực tiễn chiến dịch Điện Biên Phủ là minh chứng sống động cho việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại:
Trước hết, sức mạnh dân tộc trong chiến dịch Điện Biên Phủ đó là đường lối chiến tranh nhân dân và nghệ thuật quân sự sáng tạo của Đảng ta được xây dựng trong suốt 9 năm chống Pháp. Ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta đã đề ra đường lối mang tính cách mạng và khoa học đáp ứng đúng nguyện vọng của mọi người Việt Nam yêu nước; đã động viên, tổ chức được lực lượng toàn dân tộc vào sự nghiệp sống còn của đất nước. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của Nhân dân tiến bộ trên thế giới. Quán triệt đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, một thế trận chiến tranh nhân dân đã được xây dựng rộng khắp. Đó không chỉ là thế bố trí chiến lược, bố trí lực lượng chủ lực, mà còn là thế trận của bộ đội địa phương, dân quân du kích có mặt ở mọi nơi, mọi lúc; đó còn là từng người dân yêu nước thuộc mọi dân tộc, tôn giáo, lứa tuổi… Chính thế trận chiến tranh nhân dân đã làm địch phải phân tán khối cơ động để đối phó với chiến tranh nhân dân của ta. Kết quả là địch không những đã không tiêu diệt được lực lượng của ta mà ngược lại quân ta càng ngày càng mạnh lên.
Cùng với đường lối chiến tranh nhân dân, nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch cũng là nhân tố quyết định đến thắng lợi của chiến dịch. Để tiến hành tiến công trận địa có quy mô lớn nhất trong cuộc kháng chiến chống Pháp, quân đội ta đã sớm tổ chức thế trận bao vây; xây dựng trận địa tiến công và bao vây nhằm chia cắt thế trận liên hoàn của đối phương. Với phương châm chuyển từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” quân ta đã thực hiện đột phá lần lượt, liên tục vây hãm đối phương, từng bước triệt phá hỏa lực và đường tiếp tế của địch. Giam đối phương lại để tập trung binh lực, tiến công từng bộ phận nhằm tiêu hao sinh lực địch, tiến tới tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm.
Thứ hai, chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi của sức mạnh lòng dân, của truyền thống yêu nước nồng nàn của toàn dân tộc.
Chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến dịch dài ngày, nơi tập trung nỗ lực cao nhất của cả hai bên. Trận quyết chiến Điện Biên Phủ diễn ra ở địa hình rừng núi hiểm trở, xa hậu phương, có nhiều đèo cao, vực sâu, mạng lưới giao thông chiến lược hầu như chưa có. Trong khi đó, miền Tây Bắc vừa được giải phóng, kinh tế còn chậm phát triển, đời sống của đồng bào còn rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Chính vì vậy, để bảo đảm một khối lượng lớn vật chất hậu cần, kỹ thuật cho một chiến dịch lớn chưa từng có và diễn ra dài ngày là điều cực kỳ khó khăn, đòi hỏi phải phát huy cao độ bản lĩnh và trí tuệ của cả dân tộc. Trước tình hình đó, để đảm bảo cho chiến dịch thắng lợi, Đảng đã phát huy cao độ tinh thần bất khuất, quật cường của khối đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh của cả hậu phương và tiền tuyến. Với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, Đảng đã huy động đến mức tối đa sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần để phục vụ cho chiến dịch “Với lực lượng hơn 10 vạn người (cả bộ đội, dân công và lực lượng khác) cùng với đường rừng núi xa từ 300 – 500 km, tưởng như việc tiếp tế không thể thực hiện được. Nhưng với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, từ vùng tự do Việt Bắc, Liên khu 3, Liên khu 4, vùng mới giải phóng Tây Bắc cho đến vùng du kích, các khu căn cứ địa ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, vùng Thượng Lào, tất cả đều dồn sức cho Điện Biên Phủ, kể cả sức người, sức của. Tính chung trong chiến dịch nhân dân ta đã “đóng góp 25,560 tấn gạo, 226 tấn muối, 1.909 tấn thực phẩm, 26.453 lượt công dân, 20.991 xe đạp thồ, 1.800 mảng nứa, 756 xe thô sơ, 914 con ngựa thồ và 3.130 chiếc thuyền”(3).
Trong chiến dịch lực lượng dân công đã có những đóng góp rất to lớn: “hơn 261.653 dân công chủ yếu được huy động từ nhiều xã, huyện khác nhau trong các tỉnh ở Tây Bắc, Việt Bắc, Liên khu 3 và Liên khu 4; tính trung bình mỗi dân công đã phục vụ 100 ngày công. Một số dân công đã phục vụ suốt chiến dịch, kéo dài 6-7 tháng, trong điều kiện khó khăn gian khổ thiếu thốn về mọi mặt. Ngay tại hỏa tuyến, đồng bào Điện Biên cũng đưa 3.000 người đi dân công với 64.670 ngày công phục vụ. Hậu phương tại chỗ, khu Tây Bắc huy động 31.818 dân công. Việt Bắc, căn cứ địa kháng chiến chung của cả nước cũng cung cấp cho mặt trận 36.518 dân công. Trong vùng địch hậu tỉnh Kiến An đã đóng góp 230.294 ngày công. Trong vùng tạm chiếm của các tỉnh Bắc Bộ, đồng bào đã chuyển ra vùng tự do hơn 20 vạn tấn thóc và 7,5 triệu ngày công đi dân công”(4). Ngoài nhiệm vụ phục vụ, họ còn trực tiếp tham gia chiến đấu cùng các đơn vị quân đội. Đây là “cuộc ra quân lớn nhất” của cả nước kể từ đầu cuộc kháng chiến. Theo báo cáo ngày 10/7/1954: “Có 18.200 cán bộ, đội viên, thanh niên xung phong trực tiếp tham gia phục vụ chiến dịch. Ngoài thực hiện nhiệm vụ trên mặt trận giao thông vận tải, thanh niên xung phong đã dồn hết sức mình tiếp tế cho bộ đội 4.300 tấn gạo, 150 tấn thịt lợn, 450 tấn rau xanh phục vụ chiến dịch”(5).
Cùng với việc tích cực chuẩn bị cho chiến trường, ở hậu phương (vùng mới giải phóng), Đảng ta tiến hành thực hiện chủ trương đem lại ruộng đất cho dân cày. Từ tháng 4/1953 đến tháng 7/1954, Đảng đã lãnh đạo tiến hành 5 đợt giảm tô và 1 đợt cải cách ruộng đất theo Luật Cải cách ruộng đất do Quốc hội khoá I, Kỳ họp thứ ba (từ ngày 01 đến ngày 04/12/1953) thông qua. Với việc làm đó đã động viên được các tầng lớp nhân dân ở vùng tự do, mới giải phóng và sau lưng địch, thậm chí cả cán bộ, chiến sĩ ở tiền tuyến tin tưởng vào đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo thành khối đại đoàn kết, dồn sức người, sức của cho chiến dịch. Nhờ có chính sách đúng đắn, phù hợp với thực tế khách quan, cho nên trong chiến dịch Điện Biên Phủ không chỉ có sự tham gia ở mức cao nhất của nông dân mà còn có sự tham gia ủng hộ của nhiều nhân sĩ trí thức, các giai cấp, giai tầng khác trong xã hội.
Thứ ba, tình đoàn kết keo sơn giữa liên minh ba nước Đông Dương
Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, với tư tưởng “giúp bạn là tự giúp mình, Đảng và Nhân dân ta đã chân thành đoàn kết, liên minh chiến đấu với Nhân dân Lào và Nhân dân Caphuchia trên cơ sở Đông Dương là một chiến trường. Giữa năm 1953, quân ta cùng quân và dân Lào phối hợp mở chiến dịch Thượng Lào giành thắng lợi lớn. Cùng thời gian đó, Liên khu V và Nam Bộ đã phối hợp với Nhân dân Campuchia tiến công định giải phóng nhiều vùng rộng lớn. Những thắng lợi liên tiếp ở Việt Nam, Lào, Camphuchia làm thất bại ý đồ tập trung lực lượng cơ động của thực dân Pháp và buộc phải phân tán lực lượng đối phó với các cuộc đấu tranh ở Nhân dân ba nước Đông Dương.
Tiếp đến vào cuối năm 1953 đến đầu năm 1954, cuộc chiến Đông Xuân được triển khai trên cả ba chiến trường, tạo điều kiện cho quân và dân ta giành thắng lợi ở Điện Biên Phủ. Cùng với thắng lợi ở Thượng – Trung – Hạ Lào, ở Đông Bắc Campuchia, thắng lợi của ta ở Điện Biên Phủ và các chiến trường khác ở Việt Nam đã buộc đế quốc Pháp phải chịu thua, chấm dứt chiến tranh xâm lược ở ba nước Đông Dương.
Tuy nhiên, bên cạnh việc phát huy cao độ sức mạnh dân tộc thì trong chiến dịch Điện Biên Phủ yếu tố sức mạnh thời đại cũng là nhân tố quan trọng để góp phần làm nên thắng lợi của chiến dịch. Với chủ trương “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”(6), Đảng ta một mặt luôn nêu cao tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến, mặt khác luôn kiên trì ngoại giao để tìm kiếm tất cả sự ủng hộ, giúp đỡ từ bên ngoài. Thực tiễn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, ta đã tranh thủ được sự ủng hộ, giúp sức của Liên Xô, Trung Quốc và Nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Đối với Liên Xô, từ khi chính thức đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam dân chủ Cộng hòa (30/01/1950), Liên Xô đã có sự giúp đỡ ta rất thiết thực kể cả về quân sự và kinh tế. “Từ tháng 5/1950 đến tháng 6/1954, Việt Nam đã nhận được 21.517 tấn hàng viện trợ (súng, đạn, lương thực, quân trang…) với tổng trị giá 34 triệu rúp. Trong đó, toàn bộ số pháo cao xạ 37mm là 76 khẩu, 12 dàn hỏa tiễn H6 (Cachiusa), 685 ô tô vận tải là của Liên Xô”(7). Sự giúp đỡ vô tư, trong sáng, toàn diện của Liên Xô là điều kiện vô cùng quan trọng giúp Nhân dân Việt Nam giành được thắng lợi.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, “Trung Quốc đã giúp ta 24 khẩu pháo 105mm và 3.600 viên đạn pháo, chiếm 18% tổng số đạn có ở mặt trận. Gần cuối chiến dịch, Trung Quốc còn bổ sung trang bị cho ta một tiểu đoàn pháo ĐKZ 75mm, một tiểu đoàn hỏa tiễn Kachiusa 12 dàn 6 nòng. Ngoài ra, Trung Quốc còn giúp ta 1.700 tấn lương thực, chiếm 10,8% tổng số lương thực phải dùng tại mặt trận”(8). Cùng với việc giúp đỡ các trang thiết bị quân sự, Trung Quốc còn cử một đoàn cố vấn quân sự để giúp đỡ Việt Nam.
Đối với việc tranh thủ sự ủng hộ của Nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, Đảng luôn nêu cao tính chính nghĩa và vạch rõ bản chất chiến tranh phi nghĩa của thực dân Pháp. Nhờ vậy, đã tranh thủ được sự ủng hộ của các lực lượng dân chủ tiến bộ. Ngay ở Pháp, các cuộc biểu tình chống chiến tranh xâm lược Đông Dương đã diễn ra sôi nổi, thu hút một lực lượng lớn người bao gồm rất nhiều thành phần trong xã hội Pháp. Chính các cuộc đấu tranh của Nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới đã làm cho thực dân Pháp mất chỗ dựa về mặt chính trị và cuối cùng đã chuốc lấy thất bại.
Rõ ràng, trên cơ sở phát huy sức mạnh dân tộc, Đảng ta đã khéo léo để tranh thủ đến mức tối đa sự ủng hộ về mặt vật chất và tinh thần vô cùng to lớn của Liên Xô, Trung Quốc, các nước anh em xã hội chủ nghĩa và Nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới trong đó có cả Nhân dân Pháp. Sự kết hợp đó đã góp phần tạo ra sức mạnh tổng hợp để chiến dịch Điện Biên Phủ giành được thắng lợi.
Bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp đổi mới hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay, việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh dân tộc đang đứng trước nhiều thuận lợi và khó khăn đan xen. Ở trong nước, khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường, tiềm lực kinh tế, uy tín, vị thế quốc tế của đất nước được nâng cao. Nước ta đã ra khỏi tình trạng nước kém phát triển; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được bảo vệ vững chắc; các quan hệ quốc tế được đa dạng hóa, đa phương hóa… Đó là những tiền đề thuận lợi cho việc huy động hai nguồn lực to lớn - sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, để kết hợp chặt chẽ hơn nữa trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Tuy nhiên, chúng ta cũng đang đối diện với những thách thức lớn: Rơi vào bẫy thu nhập trung bình; tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; các nhân tố của an ninh phi truyền thống và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đối với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội… Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, là đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc. Đó chính là xu thế thời đại mà chúng ta cần và có thể tranh thủ để kết hợp với sức mạnh dân tộc trong tình hình mới. Song, xu thế đó lại đồng hành cùng những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, luôn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất trắc, khó lường, đe dọa an ninh quốc gia và an ninh toàn cầu, đòi hỏi chúng ta phải luôn nêu cao cảnh giác, chủ động phòng ngừa trong quá trình hội nhập để có thể vượt qua những thách thức, tranh thủ tối đa những thuận lợi từ bối cảnh quốc tế đem lại cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Trước tình hình đó, để kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại đạt hiệu quả cao, thiết nghĩ cần phải quán triệt một số bài học sau:
Một là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn. Trải qua cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã quy tụ được mọi giai cấp và các tầng lớp trong dân tộc, đồng thời thanh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế to lớn. Mục tiêu đó đã trở thành động lực mạnh mẽ để làm nên thắng lợi “vang dội năm châu, chấn động địa cầu” ở Điện Biên Phủ.
Trong đấu tranh cách mạng, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là động lực, là nguồn gốc của mọi thắng lợi. Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc tiếp tục kiên định mục tiêu Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vẫn là yêu cầu có tính quy luật đối với toàn Đảng và toàn dân. Theo đó, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để bảo đảm vững chắc mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội; ngược lại xây dựng chủ nghĩa thành công chủ nghĩa xã hội chính là cơ sở để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc. Vì vậy, trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng ta luôn khẳng định: Đổi mới không phải thay đổi mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội mà ngược lại làm cho mục tiêu đó đạt được hiệu quả cao hơn. Những kết quả của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là tiền đề vững chắc để góp phần bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Hai là, độc lập, tự chủ, sáng tạo trong hoạch định đường lối và tổ chức thực hiện đường lối
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ là kết quả của đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta. Đường lối kháng chiến là kết quả của quá trình tìm hiểu, phân tích thực tiễn chiến tranh cách mạng, là sự kế thừa những kinh nghiệm đánh giặc của tổ tiên ta hàng ngàn năm về trước, là việc chọn lọc những kinh nghiệm các cuộc chiến tranh chống xâm lược trên thế giới. Quá trình hoạch định đường lối kháng chiến là quá trình Đảng ta xuất phát từ thực tiễn, là sự vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm bên ngoài vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, từ đó tìm ra con đường và giải pháp kháng chiến phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Tìm ra con đường kháng chiến đúng đắn trong cuộc chiến đấu không cân sức với địch là một bài toán khó đối với Đảng và Nhân dân ta. Đó là một thử thách vô cùng lớn trong lịch sử cách mạng do Đảng ta lãnh đạo. Điều đó đòi hỏi Đảng phải nâng cao tính độc lập, tự chủ, sáng tạo. Kinh nghiệm lớn của Đảng là vừa tổng kết kinh nghiệm lịch sử dân tộc, vừa tham khảo kinh nghiệm của thế giới, từ đó tìm ra những vấn đề có tính quy luật của chiến tranh. Quy luật căn bản đồng thời là bí quyết thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp đó là phát huy cao độ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của Nhân dân các nước tiến bộ trên thế giới; từ đó tạo ra sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi. Những kinh nghiệm của Đảng ta về hoạch định, phát triển, bổ sung và hoàn chỉnh đường lối kháng chiến làm phong phú thêm kho tàng khoa học và nghệ thuật cứu nước và giữ nước của dân tộc ta. Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã khẳng định đường lối chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh của Đảng là hoàn toàn đúng đắn.
Trong bối cảnh hiện nay, để hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, giàu mạnh, đòi hỏi Đảng ta phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong hoạch định chủ trương đường lối. Muốn vậy, Đảng phải không ngừng tổng kết lý luận và thực tiễn, ra sức chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật tốt; nâng cao kỷ luật kỷ cương trong Đảng và bộ máy nhà nước; đẩy mạnh phê bình và tự phê bình; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới.
Ba là, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Thực tiễn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chiến dịch Điện Biên Phủ cho thấy, để củng cố và sử dụng hiệu quả sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng ta đã đề ra mục tiêu chung cho cách mạng phù hợp với nguyện vọng của đại đa số các giai cấp, giai tầng trong xã hội. Chính mục tiêu giải phóng dân tộc đã góp phần quy tụ được hầu hết các tầng lớp nhân dân thống nhất, để làm nên thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ. Ngày nay, mục tiêu chung của cách mạng Việt Nam là tất cả vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu trên, trước hết mọi người dân Việt Nam phải xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết để tạo ra sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội. Vì vậy, Đảng cần chú trọng bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của cộng đồng, giải quyết hài hòa lợi ích giữa các giai tầng trong xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới.
Bốn là, phát huy nội lực, đề cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chiến dịch Điện Biên Phủ, với đường lối kháng chiến là toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh; Đảng ta đã huy động đến mức tối đa sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần để tạo nên một trận Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, hơn bao giờ hết phải phát huy cao độ tinh thần độc lập tự chủ; nâng cao nội lực của đất nước. Bởi lẽ, nội lực là kết quả tổng hợp tất cả sức mạnh bên trong của đất nước. Đó chính là từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng; từ sự điều hành năng động, sáng tạo của Nhà nước; từ hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội; tinh thần và sức mạnh của toàn thể dân tộc Việt Nam… Do đó, để tạo ra nội lực to lớn và bền vững cho đất nước, phải đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đặc biệt chú trọng công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng; phát huy quyền làm chủ của Nhân đân; khắc phục nguy cơ, nắm bắt thời cơ, vượt qua khó khăn thử thách để đưa đất nước phát triển bền vững.
Năm là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ là kết quả của nhiều nhân tố, trong đó sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước anh em, bạn bè quốc tế như Liên Xô, Trung Quốc, cùng Nhân dân tiến bộ trên thế giới đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của Nhân dân ta. Ngày nay, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã mở ra thời cơ đồng thời cũng là thách thức đối với các quốc gia, dân tộc trên thế giới, nhất là các nước nhỏ, các nước đang phát triển. Vì vậy, để tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ thì chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng là yêu cầu khách quan. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề hội nhập quốc tế, Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”(9). Bên cạnh đó, cần tiếp tục thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, tiếp tục đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương nhằm tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài để đưa đất nước phát triển bền vững, đồng thời góp phần bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
70 năm đã trôi qua, đất nước đã có nhiều đổi thay và đang bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng, song bài học kinh nghiệm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong chiến dịch Điện Biên Phủ vẫn còn nguyên giá trị, mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.
Chú thích:
(1) Võ Nguyên Giáp: Quyết định khó khăn nhất, xem: Thế giới còn thay đổi nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi, Ban KHXH Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, 1991, tr.77.
(2) Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, H.1977, tr.538.
(3) Lịch sử hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam (1944 -1954), Nxb Quân đội nhân dân, H.1993, tr.305.
(4) Ban Khoa học xã hội Việt Nam – Viện sử học, Mấy vấn đề về chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Nxb Khoa học xã hội, H. 1985, tr.99.
(5) Báo cáo của Hội đồng cung cấp mặt trận tháng 7/1957, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, tập 5, tr.256.
(7) Ban Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp – Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.1996, tr.459.
(8) Điện Biên Phủ từ góc nhìn của các nhà khoa học Việt – Pháp, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2005, tr.281.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tập I, tr.117-118.
Ths. Đào Xuân Kỳ
Học viện Chính trị khu vực III