Nội dung quy định trên cho thấy, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND được thực hiện ở tất cả các lĩnh vực hoạt động tư pháp, trong đó, có thể phân thành 2 nhóm chủ yếu là: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự và kiểm sát hoạt động tư pháp ngoài lĩnh vực hình sự.
- Trong lĩnh vực hình sự, VKSND thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm đảm bảo cho việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự đúng pháp luật. Đặc biệt, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự có quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời với chức năng thực hành quyền công tố.
- Đối với kiểm sát hoạt động tư pháp ngoài lĩnh vực hình sự, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm đảm bảo các hoạt động đó được tiến hành đúng pháp luật, hạn chế việc cơ quan tư pháp lạm dụng quyền lực vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, nếu VKSND phát hiện vi phạm thì có quyền kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu cơ quan, cá nhân khắc phục vi phạm. Đây là sự khác biệt so với các phương thức kiểm tra, giám sát của cơ quan thanh tra chủ yếu là kiến nghị về các biện pháp xử lý cho các cơ quan quản lý vì bị ràng buộc và chế ước trong chức năng của cơ quan quản lý cùng cấp. Bên cạnh đó, so với chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp hướng tới nhằm đảm bảo pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh và thống nhất, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân.
Nội dung kiểm sát hoạt động tư pháp
Theo quy định của khoản 2 Điều 6 Luật Tổ chức VKSND năm 2014, kiểm sát hoạt động tư pháp bao gồm 9 nội dung sau đây: (1) Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; (2) Kiểm sát việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự; (3) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng trong giai đoạn truy tố; (4) Kiểm sát việc xét xử vụ án hình sự; (5) Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự; (6) Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật; (7) Kiểm sát việc thi hành án dân sự, thi hành án hành chính; (8) Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền; (9) Kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp.
Với 9 nội dung kiểm sát nêu trên có thể được chia thành 2 nhóm: Nhóm 1 - Kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự bao gồm các khâu công tác kiểm sát từ 1 đến 5 (điểm a, b, c, d, đ khoản 2 Điều 6); Nhóm 2 - Kiểm sát hoạt động tư pháp ngoài lĩnh vực hình sự bao gồm các khâu công tác từ 6 đến 9 (điểm e, g, h, i khoản 2 Điều 6).
- Nhóm 1, trong lĩnh vực hình sự: Phạm vi của kiểm sát hoạt động tư pháp được bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Cơ sở xác định thời điểm bắt đầu kiểm sát hoạt động tư pháp là khi quyền công tố được phát động. Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự sẽ chấm dứt khi kết thúc các hoạt động tố tụng và mục đích các hoạt động tố tụng đạt được. Nội dung của 5 khâu kiểm sát trong lĩnh vực hình sự này chính là hoạt động xem xét tính hợp pháp của các quyết định và hành vi của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, đến giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Điều đáng chú ý ở đây là nội dung của 5 khâu kiểm sát này luôn gắn chặt với nội dung của chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố. Mục đích của kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là, một mặt, để phát hiện vi phạm của các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng nhằm đảm bảo sự tuân thủ pháp luật của chủ thể này; mặt khác, là tiền đề quan trọng để VKSND thực hiện chức năng thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự.
- Nhóm 2, kiểm sát hoạt động tư pháp trong các lĩnh vực tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án dân sự - hành chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo và tương trợ tư pháp. Nội dung của 4 khâu kiểm sát này tập trung vào việc kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của các cơ quan, cá nhân, tổ chức trong hoạt động tư pháp ngoài lĩnh vực hình sự, như kiểm sát các bản án, quyết định của tòa án; tích cực chủ động tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ án hành chính; kiểm sát việc thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và cấp dưới; kiểm sát hồ sơ thi hành án; kiểm sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan trong việc thi hành án; kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong các lĩnh vực tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự, dân sự, hành chính, tạm giữ, tạm giam... Qua công tác kiểm sát này, nếu phát hiện vi phạm pháp luật, VKSND phải kịp thời kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân khắc phục vi phạm để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
Vai trò của kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND
Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND trong lịch sử lập hiến, lập pháp của đất nước qua từng giai đoạn đã và đang là minh chứng về giá trị ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trong cơ chế giám sát và kiểm soát quyền lực Nhà nước nói chung và hoạt động tư pháp nói riêng. Trong giai đoạn hiện nay, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp vẫn phát huy vai trò quan trọng trong giám sát quyền lực tư pháp. Kiểm sát hoạt động tư pháp có tác dụng phòng ngừa và ngăn chặn mọi hành vi lạm dụng quyền lực công trong hoạt động tư pháp, nhằm phát hiện vi phạm, kịp thời xử lý, bảo vệ pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Vai trò của chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp được thể hiện qua nội dung chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, về tính đặc thù của vai trò giám sát
Kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND có vai trò là một phương thức kiểm soát quyền lực Nhà nước nói chung và kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp nói riêng. Xuất phát từ chính những điểm đặc thù của hoạt động tư pháp, kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND đòi hỏi phải toàn diện nhưng cũng hết sức cụ thể mới bảo đảm được mục đích của kiểm sát hoạt động tư pháp. Kiểm sát hoạt động tư pháp mang tính toàn diện là việc kiểm sát được thực hiện với tất cả các hoạt động tư pháp và cả các họat động liên quan, bổ trợ cho hoạt động tư pháp; việc kiểm sát không chỉ đối với hoạt động mà còn đối với người thực hiện hoạt động, người chấp hành kết quả của hoạt động tư pháp; kiểm sát cả văn bản tư pháp (hồ sơ, tài liệu, bản án, quyết định) và hành vi tư pháp. Kiểm sát cụ thể là kiểm sát đối với từng hoạt động tư pháp do cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện, từ căn cứ, quy trình thực hiện đến kết quả của hoạt động tư pháp; kiểm sát việc lập hồ sơ từng vụ án, vụ việc; kiểm sát hình thức và nội dung của từng văn bản tố tụng… Quyền năng pháp lý phải phù hợp đối với việc phòng ngừa và khắc phục, xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hệ thống pháp luật hiện hành đã cơ bản đáp ứng yêu cầu, qua đó đã xác định các lĩnh vực tư pháp thuộc phạm vi kiểm sát của VKSND theo Luật Tổ chức VKSND năm 2014 gồm: Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; việc giải quyết vụ án hình sự (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử); việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự; việc thi hành án (hình sự, dân sự, hành chính); việc tạm giữ, tạm giam; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; hoạt động tương trợ tư pháp và các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, trong từng lĩnh vực này lại bao gồm nhiều họat động, nhiều chủ thể, đều đặt dưới sự kiểm sát của VKSND. Bên cạnh đó, VKSND có các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị, trực tiếp xử lý vi phạm, tội phạm trong hoạt động tư pháp được áp dụng phù hợp với tính chất, mức độ, trường hợp vi phạm.
- Thứ hai, về tính phổ biến của tổ chức và hoạt động
Một là, về tổ chức, VKSND là một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy Nhà nước. VKSND thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp có sự độc lập về tổ chức so với các cơ quan bị kiểm sát (đối tượng của kiểm sát hoạt động tư pháp). Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, VKSND là hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy Nhà nước, được tổ chức theo ngành dọc, không nằm trong hay không bao trùm các cơ quan thực hiện quyền tư pháp và cơ quan tham gia trong hoạt động tư pháp như cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án... Do vậy, VKSND thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp độc lập, bảo đảm cho hoạt động giám sát được khách quan, trung thực, có hiệu lực, hiệu quả cao.
Hai là, về hoạt động, VKSND là cơ quan duy nhất tham gia toàn bộ các giai đoạn (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án) theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, do đó, VKSND có thẩm quyền tham gia vào tất cả các lĩnh vực (tố tụng tư pháp hình sự, dân sự, hành chính, thi hành án ....) trong hoạt động tư pháp. Đây là tiền đề và giá trị quan trọng để đảm bảo cho VKSND có khả năng giám sát hiệu quả nhất toàn bộ quá trình tố tụng và các lĩnh vực khác trong hoạt động tư pháp, cũng là để giám sát toàn bộ quá trình thực hiện quyền tư pháp. Bên cạnh đó, với bộ máy tổ chức và hoạt động của VKSND tương đối hoàn thiện, hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp sẽ mang tính chuyên môn sâu, thường xuyên, liên tục, có nhiều chức danh tư pháp theo ngạch. Qua đó, VKSND có đủ cơ sở để phát hiện vi phạm trong hoạt động tư pháp và là điều kiện cần thiết để bảo đảm cho hoạt động giám sát có tính chuyên nghiệp và có hiệu quả cao.
Thứ ba, về tính hiệu quả trên thực tiễn
Với tư cách là một thiết chế độc lập trong bộ máy Nhà nước, VKSND đã và đang thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tư pháp có hiệu quả. Kết quả từ thực tiễn của công tác kiểm sát hoạt động tư pháp là minh chứng rõ ràng nhất về sự cần thiết của VKSND nói chung và sự cần thiết của cơ chế giám sát hoạt động tư pháp nói riêng. Hàng năm, Viện trưởng VKSND tối cao báo cáo công tác của ngành KSND trước Quốc hội về kết quả thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp đều được Quốc hội đánh giá cao, đạt và vượt các chỉ tiêu đề ra trong Nghị quyết của Quốc hội về công tác này (được thể hiện trong các báo cáo công tác năm của ngành KSND). Qua đó, cho thấy, giá trị ý nghĩa về thực tiễn của chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND là đáng ghi nhận, có vai trò quan trọng, là chỗ dựa đáng tin cậy của Quốc hội trong giám sát quyền lực tư pháp. Kiểm sát hoạt động tư pháp vừa là cơ chế kiểm soát từ bên ngoài, độc lập với đối tượng giám sát, nhưng lại có khả năng bao quát và giám sát được toàn bộ, từng hoạt động cụ thể trong quá trình thực hiện hoạt động tư pháp, nhằm đảm bảo Hiến pháp và pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh, hạn chế sai phạm, vi phạm của các cơ quan tham gia thực hiện hoạt động tư pháp. Bởi lẽ, VKSND chỉ xem xét đối tượng kiểm sát hoạt động tư pháp dưới phương diện có hợp pháp hay không hợp pháp mà không can thiệp vào hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của các cơ quan này. Nếu VKSND phát hiện vi phạm thì thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu khắc phục những vi phạm đó; hoặc tập hợp nhiều vi phạm phổ biến để kiến nghị đến cơ quan quản lý hoặc cơ quan quyền lực nhà nước, cũng như tham mưu cho cấp ủy Đảng để chỉ đạo, khắc phục vi phạm. Vì vậy, kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND không làm cản trở hoạt động bình thường của các cơ quan thực hiện quyền tư pháp, mà hướng đến mục tiêu bảo đảm pháp luật được thực hiện, chấp hành một cách nghiêm chỉnh, thống nhất, bảo vệ quyền lợi của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND
Thứ nhất, đổi mới hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành trong công tác kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND
Trước hết, cần xác định rõ trọng tâm của từng lĩnh vực (khâu) công tác kiểm sát hoạt động tư pháp hàng năm, từng giai đoạn để có sự quan tâm, đầu tư hợp lý.
- Kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự có nhiệm vụ trọng tâm là chống oan, sai, chống bỏ lọt tội phạm; phòng chống tham nhũng, thu hồi tối đa tài sản trong các vụ án về tham nhũng, kinh tế cho Nhà nước; tội phạm về môi trường, tội phạm về ma túy, tội phạm công nghệ cao, tội phạm hoạt động theo kiểu băng nhóm, tội phạm hoạt động tín dụng đen và tội phạm xâm hại trẻ em.
- Kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực dân sự, hành chính đang là khâu yếu, Viện trưởng VKSND các cấp cần tập trung chỉ đạo công tác, đặc biệt đối với các vụ án tranh chấp đất đai, khiếu kiện đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư; các vấn đề mới phát sinh, chưa có cơ sở pháp lý rõ ràng để giải quyết thì phải báo cáo cấp có thẩm quyền xin ý kiến về định hướng xử lý.
- Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án cần tăng cường kiểm sát đột xuất tại cơ sở giam giữ; kiểm sát chặt chẽ việc đấu giá thu hồi tài sản trong các vụ án về tham nhũng, kinh tế; chủ động yêu cầu thi hành các bản án hành chính.
- Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cần tập trung giải quyết khiếu nại về oan, sai; trực tiếp đối thoại với công dân trong trường hợp khiếu kiện phức tạp, kéo dài
Bên cạnh đó, VKSND tối cao nhanh chóng xây dựng, ban hành tài liệu hướng dẫn về quy trình, kỹ năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong từng lĩnh vực, hướng dẫn việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi kiểm sát hoạt động tư pháp. Cần đổi mới hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ kiểm sát bảo đảm hợp lý, phản án đầy đủ các hoạt động kiểm sát; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về từng kỹ năng nghiệp vụ kiểm sát. VKSND các cấp định kỳ sơ kết, tổng kết việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong từng khâu công tác, thông báo rút kinh nghiệm; xây dựng các chuyên đề nghiệp vụ nhằm phát huy sáng kiến, ứng dụng vào thực tiễn; bảo đảm chất lượng trả lời thỉnh thị, hướng dẫn, giải đáp vướng mắc; tự thanh tra, kiểm tra để kịp thời khắc phục sai pham, thiếu sót công tác; tăng cường kiểm tra đột xuất, xử lý vi phạm, khen thưởng, kỷ luật phải công bằng, có tiêu chí cụ thể.
Đặc biệt, thông qua hình thức họp giao ban, hội thảo, sinh hoạt chuyên môn, VKSND các cấp chủ động thông báo nội dung văn bản mới, tập huấn nhanh, chuyên sâu về nghiệp vụ công tác kiểm sát. Chú trọng công tác đào tạo tại chỗ như: Thông báo rút kinh nghiệm; xây dựng chuyên đề; tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm; tổ chức hội thảo, hội nghị, tọa đàm; trao đổi, thỉnh thị, giải đáp vướng mắc…nhằm đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho Kiểm sát viên, công chức.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, bao gồm kiểm tra việc thực hiện kế hoạch, chương trình công tác, kiểm tra theo chuyên đề nghiệp vụ, thanh tra, kiểm tra cả về việc tiến hành thủ tục tố tụng và áp dụng pháp luật nội dung, tính hợp pháp, chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động tư pháp. Qua hoạt động thanh tra, kiểm tra, phải nhanh chóng và kịp thời phát hiện yếu kém, tồn tại trong công tác kiểm sát hoạt động tư pháp để đề ra những biện pháp khắc phục, kiên quyết xử lý trường hợp vi phạm kỷ luật công tác, đạo đức nghề nghiệp.
Thứ hai, xây dựng bộ máy tổ chức và nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm sát viên, kiểm tra viên theo hướng chuyên sâu về công tác kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính
- Bộ máy tổ chức của VKSND về công tác kiểm sát hoạt động tư pháp cần được xây dựng theo hướng ngày chuyên nghiệp, có tổ chức. Theo đó, cần kiện toàn về cơ cấu tổ chức các bộ phận thực hiện công tác kiểm sát hoạt động tư pháp. Đồng thời, xây dựng đội ngũ kiểm sát viên có trình độ, chuyên môn chuyên sâu về công tác kiểm sát hoạt động tư pháp ở VKSND các cấp, đơn vị.
- Đổi mới mạnh mẽ bộ máy tổ chức theo hướng, ở đơn vị, VKSND các cấp đang thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự với công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, kinh doanh, thương mại, lao động là các đơn vị độc lập, thì chuyển bộ phận làm án kinh doanh, thương mại, lao động thành một bộ phận thuộc đơn vị kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự do cùng tính chất của quan hệ tranh chấp và thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, ở đơn vị, VKSND các cấp có số lượng án hành chính ít thì chỉ tổ chức một đơn vị kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính chung.
- Nghiên cứu phát triển đội ngũ chuyên gia về pháp luật dân sự với nòng cốt là đội ngũ kiểm sát viên, kiểm tra viên, công chức, viên chức đang làm công tác pháp chế, nghiên cứu, giảng dạy trong ngành Kiểm sát. Nghiên cứu cơ chế để đưa đội ngũ công chức, viên chức này tham gia vào thực tiễn công tác kiểm sát tại các đơn vị nghiệp vụ. Cần có cơ chế thích hợp trong việc tuyển dụng, sử dụng người có trình độ lý luận và thực tiễn tốt về lĩnh vực này. Có chính sách, kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo, xây dựng đội ngũ chuyên gia này.
- Cần chú trọng quan tâm, bố trí, điều động, luận chuyển để đào tạo kiểm sát viên, công chức làm công tác này theo hướng chuyên trách, nhằm tạo điều kiện thuận lợi để Kiểm sát viên tập trung nghiên cứu chuyên sâu về một hoặc một số loại án dân sự cụ thể, cập nhật kiến thức, tích lũy kinh nghiệm. Đặc biệt cần có chính sách khuyến khích, động viên để kiểm sát viên, kiểm tra viên yên tâm với nhiệm vụ được phân công. Đối với kiểm sát viên đã được đào tạo, tập huấn chuyên sâu về công tác này thì cần hạn chế việc luân chuyển, bảo đảm ổn định lực lượng cán bộ, phát triển đội ngũ chuyên gia.
- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến, tập huấn kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ kiểm sát viên, kiểm tra viên làm công tác kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính. Tăng cường tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật về quản lý Nhà nước cho kiểm sát viên.
Thứ ba, đổi mới về nội dung, phương thức kiểm sát hoạt động tư pháp
- Kiểm sát viên phải nắm vững và thực hiện đúng, đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND được pháp luật quy định, tuân thủ các thao tác nghiệm vụ theo quy chế của ngành Kiểm sát. Bên cạnh đó, khi tiến hành hoạt động kiểm sát, kiểm sát viên cần phải thận trọng, khách quan trong việc đánh giá tính hợp pháp của các quyết định, hành vi của các cơ quan tố tụng, các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp. Từ đó, cần nhanh chóng, kịp thời phát hiện vi phạm, yêu cầu cơ quan điều tra, tòa án, cơ quan thi hành án hình sự, dân sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khắc phục vi phạm. Đồng thời, ban hành kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu, thông báo đối với những vi phạm của các cơ quan đó để thực hiện đúng quy định pháp luật.
- VKSND các cấp cần phải xác định rõ các phương pháp, cách thức thực hiện hoạt động kiểm sát trong từng khâu công tác, lĩnh vực. Vì vậy, cần xác định rõ các trường hợp, căn cứ, điều kiện áp dụng phương thức kiểm sát trực tiếp hoặc kiểm sát qua bản án, quyết định; kiểm sát hồ sơ vụ án, vụ việc bảo đảm để VKSND kiểm sát chặt chẽ ngay từ đầu và trong suốt quá trình thực hiện hoạt động tư pháp. Cần đổi mới các phương pháp trực tiếp kiểm sát, tham gia phiên tòa, phiên họp, trực tiếp tham gia vào hoạt động tư pháp khác trong các công tác kiểm sát, để tăng cường phát hiện vi phạm trong các hoạt động này.
VKSND các cấp cần nâng cao chất lượng về nội dung và hình thức của các kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu để bảo đảm việc thực hiện các quyền này có căn cứ, đúng pháp luật, được chấp nhận và thực hiện nghiêm túc. Đặc biệt, để nâng cao chất lượng kháng nghị, VKSND các cấp cần có biện pháp, kỹ năng nghiệp vụ phát hiện vi phạm của các chủ thể được kiểm sát thông qua nghiên cứu các bản án, quyết định hoặc qua kiểm sát trực tiếp phát hiện vi phạm. Cần xây dựng bộ phận chuyên trách nghiên cứu, phân tích, phát hiện, tổng hợp vi phạm pháp luật trong giải quyết vụ việc. Kiến nghị của VKSND cần tiếp tục được đẩy mạnh, đối với vi phạm đơn lẻ thì tập hợp để kiến nghị, tập trung kiến nghị điển hình, phổ biến, vi phạm kéo dài về trình tự, thủ tục, áp dụng pháp luật. Đối với yêu cầu cần chú ý phải rõ, sát với thực tế, có tính khả thi, đúng trình tự, thủ tục để nâng cao hiệu quả thực hiện quyền yêu cầu./.
TS. Lê Ngọc Duy
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội