Để khắc phục những bất cập, hạn chế nhằm đảm bảo đơn giản hoá chính sách, đáp ứng yêu cầu về cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hoá công tác quản lý thuế và thực hiện giảm dần mức động viên theo Chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2011 – 2020 để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn tới thì việc sửa đổi, bổ sung Luật thuế TNDN đang trở nên cấp thiết. Bên cạnh đó, việc sửa đổi, bổ sung Luật thuế TNDN lần này cũng đồng bộ với sửa đổi, bổ sung Luật thuế GTGT.
Với mục tiêu, quan điểm kiên trì mục tiêu dài hạn đã đặt ra, sửa đổi, bổ sung những vấn đề bất cập so với thực tế, đảm bảo đơn giản, minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện, tạo thuận lợi cho người nộp thuế và góp phần thúc đẩy cải cách hành chính và hiện đại hoá công tác quản lý thuế và góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh so với các nước trong khu vực, các nước có điều kiện tương đồng với nước ta, phù hợp với xu thế cải cách thuế và thông lệ quốc tế, dự án Luật dự kiến sửa đổi, bổ sung 10/20 điều của Luật hiện hành, bao gồm 8 nhóm vấn đề với 18 nội dung, trong đó, nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu là về thuế suất, về ưu đãi thuế, về thu nhập miễn thuế và thu nhập chịu thuế, về các khoản chi được trừ, không được trừ...
 |
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNDN dự kiến sẽ có hiệu lực kể từ 01/01/2014. |
Về thu nhập được miễn thuế
Để phù hợp với thực tiễn, đồng bộ với quy định của các pháp luật liên quan, khuyến khích doanh nghiệp bỏ vốn vào lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư, dự thảo Luật bổ sung vào diện thu nhập miễn thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng chỉ giảm phát thải (CERs) của DN được cấp chứng chỉ; thu nhập từ hoạt động tín dụng đầu tư phát triển, tín dụng xuất khẩu của nhà nước của Ngân hàng phát triển Việt Nam, thu nhập từ hoạt động tín dụng cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác của ngân hàng chính sách xã hội và phần thu nhập không chia dùng để đầu tư phát triển cơ sở giáo dục đại học tư thục theo quy định của Luật Giáo dục đại học. Quy định này nhằm đảm bảo minh bạch chính sách.
Về khoản chi được trừ và không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN
Nhằm phù hợp với thực tiễn cũng như thông lệ quốc tế, dự thảo Luật có quy định nới rộng tỷ lệ khống chế chi phí quảng cáo, khuyến mại từ 10% lên 15%, đồng thời loại bỏ một số khoản chi không mang tính chất quảng cáo, khuyến mại như chiết khấu thanh toán, chi báo biếu, báo tặng của cơ quan báo chí ra khỏi diện chi phí khống chế để phản ánh đúng bản chất của khoản chi; bổ sung vào diện chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế đối với khoản tài trợ theo chương trình của Nhà nước đối với các địa phương thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn... để đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi và chủ động cho doanh nghiệp, dự thảo Luật đã bỏ quy định doanh nghiệp phải thông báo cho cơ quan thuế về các định mức tiêu hao nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng do doanh nghiệp tự xây dựng để xác định chi phí hợp lý...
Bên cạnh đó, để góp phần quản lý, kiểm soát thu nhập của tổ chức, nâng cao tính minh bạch, rõ ràng, từ đó đảm bảo sự công bằng trong thực hiện nghĩa vụ thuế giữa các doanh nghiệp, dự thảo Luật bổ sung quy định về điều kiện khoản chi được trừ phải có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với những hoá đơn mua hàng hoá, dịch vụ từng lần có giá trị từ 20 triệu đồng trở lên và có quy định loại trừ các trường hợp không bắt buộc phải có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt để đảm bảo tính khả thi, phù hợp với thực tiễn do hạ tầng công nghệ và mạng lưới ngân hàng còn chưa thật đồng đều giữa các vùng miền.
Về thuế suất
Dự án Luật điều chỉnh giảm mức thuế suất phổ thông từ 25% xuống 23%, đồng thời điều chỉnh giảm mức thuế suất từ 25% xuống còn 20% áp dụng đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa. Việc đề xuất giảm thuế suất như nêu trên căn cứ cơ sở thực tiễn, phù hợp với xu thế của nhiều nước trên thế giới và cũng là một bước thực hiện Chiến lược cải cách thuế đến năm 2020.
Qua kết quả sau 4 năm thực hiện Luật đồng thời so sánh với các nước cho thấy mức thuế suất phổ thông 25% là phù hợp với thực tế thời gian qua và là mức trung bình so với các nước trong khu vực. Tuy nhiên, những nghiên cứu kinh nghiệm của các nước cho thấy gần đây các nước có xu thế cải cách thuế theo hướng giảm dần mức thuế suất phổ thông để tạo sự hấp dẫn, tăng tính cạnh tranh môi trường đầu tư trong thu hút đầu tư. Và có thể thấy, so với các nước trong khu vực và thế giới thì mức thuế suất phổ thông giảm xuống còn 23% là mức tương đối thấp, đảm bảo tính cạnh tranh và hấp dẫn thu hút đầu tư.
Về ưu đãi thuế
Bên cạnh việc điều chỉnh giảm mức thuế suất phổ thông, trên cơ sở kết quả tổng kết đánh giá 04 năm thực hiện Luật và rà soát các quy định về ưu đãi thuế TNDN tại các văn bản pháp luật chuyên ngành, dự thảo Luật đã bổ sung thêm lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn ưu đãi.
Có thể thấy việc bổ sung quy định ưu đãi thuế sẽ đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật. Trong đó, việc bổ sung ưu đãi thuế đối với lĩnh vực nông nghiệp sẽ khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, phát triển các lĩnh vực này, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân, góp phần phát triển kinh tế, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị với nông thôn, miền núi; việc bổ sung vào diện ưu đãi thuế ở mức cao đối với các lĩnh vực bảo vệ môi trường, sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới không sử dụng nhiên liệu hóa thạch, phát triển công nghệ sinh học, sản xuất năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, sản xuất năng lượng từ việc tiêu hủy chất thải, tiết kiệm năng lượng... nhằm hướng tới phát triển kinh tế bền vững, giảm thiểu ô nhiễm môi trường...
Bên cạnh những sửa đổi, bổ sung Luật Thuế TNDN nêu trên, dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung khái niệm "cơ sở thường trú" để phù hợp với các cam kết quốc tế, không làm ảnh hưởng đến quyền đánh thuế của Việt Nam; bổ sung vào thu nhập chịu thuế một số khoản thu nhập mới phát sinh cho phù hợp với thực tiễn; bổ sung quy định về xác định thu nhập tính thuế và chuyển lỗ đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản và một số khoản thu nhập có tính chất tương tự...
Với các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung như nêu trên, khi Luật được thông qua hứa hẹn sẽ tạo thuận lợi cho doanh nghiệp có điều kiện tăng tích tụ, tích luỹ, tái đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, đồng thời thu hút và khuyến khích đầu tư mới, đầu tư mở rộng, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế.
Dự kiến Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNDN sẽ có hiệu lực kể từ 01/01/2014./.
Dương Nguyễn