Thực hiện Quyết định số 999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 11/7/2020 về phân công cơ quan chủ trì soạn thảo, thời hạn trình các dự án luật, pháp lệnh năm 2020, các dự án luật thuộc chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021, Tổng Thanh tra Chính phủ đã ký quyết định thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự án Luật Thanh tra sửa đổi, đồng thời, ban hành Kế hoạch xây dựng Luật Thanh tra sửa đổi. Trên cơ sở xác định mục tiêu, quan điểm chỉ đạo sửa đổi Luật, dự thảo Luật Thanh tra sửa đổi (gọi tắt là Dự thảo Luật) gồm 10 chương, 131 Điều, quy định những nội dung cơ bản sau:
1. Phân định rõ hoạt động thanh tra và kiểm tra
Hoạt động thanh tra và kiểm tra phục vụ yêu cầu quản lý của các cơ quan rất khác nhau về mục đích, yêu cầu, trình tự, thủ tục và hệ quả pháp lý. Hoạt động thanh tra đã được luật hóa và thực hiện có hiệu quả trong nhiều năm qua. Hoạt động kiểm tra là hoạt động thường xuyên của các cơ quan quản lý Nhà nước. Tuy nhiên, chưa có văn bản nào phân định rõ hoạt động thanh tra và kiểm tra. Để tạo thuận lợi cho các cơ quan Nhà nước có cơ sở pháp lý để lựa chọn công cụ thanh tra, kiểm tra phục vụ yêu cầu quản lý, Dự thảo Luật đã phân định rõ hoạt động thanh tra và kiểm tra (Điều 9, Dự thảo Luật), cụ thể là:
- Thanh tra là hoạt động của cơ quan thanh tra Nhà nước có thẩm quyền để xem xét, đánh giá, xử lý việc thực hiện trách nhiệm quản lý Nhà nước và kết quả thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước.
Hoạt động thanh tra bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
Thanh tra hành chính xem xét, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý của Thủ trưởng cơ quan quản lý.
Thanh tra chuyên ngành xem xét, đánh giá việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý ngành của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý Nhà nước theo ngành, lĩnh vực.
- Kiểm tra là hoạt động được thực hiện thường xuyên, liên tục của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân được giao nhiệm vụ quản lý nhằm đôn đốc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước; phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm trật tự quản lý.
2. Trách nhiệm quản lý Nhà nước và thẩm quyền tổ chức thực hiện hoạt động thanh tra của Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng, chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh
Dự thảo Luật đã xác định rõ các chức danh có thẩm quyền tổ chức hoạt động thanh tra gồm: Thủ tướng Chính phủ; Tổng Thanh tra Chính phủ; bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ; chủ tịch UBND cấp tỉnh. Chỉ có cơ quan thanh tra được thành lập theo quy định của Luật này mới được phép tiến hành hoạt động thanh tra. Bộ trưởng, chủ tịch UBND cấp tỉnh có trách nhiệm điều hòa, phối hợp hoạt động thanh tra với hoạt động kiểm tra trong phạm vi quản lý của mình nhằm đạt được hiệu lực quản lý Nhà nước, đồng thời không gây phiền hà cho đối tượng quản lý.
Bên cạnh đó, Dự thảo Luật cũng đã quy định trách nhiệm của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, chủ tịch UBND cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo hoạt động thanh tra, cho ý kiến chỉ đạo đối với các dự thảo kết luận thanh tra, xử lý kịp thời kiến nghị thanh tra và trực tiếp chỉ đạo thực hiện kết luận thanh tra.
Căn cứ vào các quy định của pháp luật chuyên ngành, thủ trưởng các cơ quan quản lý Nhà nước có trách nhiệm tổ chức hoạt động kiểm tra thường xuyên để xử lý kịp thời hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân, bảo đảm trật tự, hiệu quả của công tác quản lý trong lĩnh vực và địa bàn thuộc trách nhiệm của mình.
Bộ trưởng, chủ tịch UBND cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức phối hợp hoạt động thanh tra của các cơ quan thanh tra với hoạt động kiểm tra thường xuyên của cơ quan quản lý trong phạm vi quản lý của bộ, ngành và địa phương mình quản lý, bảo đảm không trùng lặp, chồng chéo, gây phiền hà cho cơ quan, tổ chức, cá nhân; bảo đảm các hoạt động thanh tra cơ bản chỉ thực hiện theo kế hoạch, các hoạt động kiểm tra được thực hiện thường xuyên, liên tục.
Phó Tổng Thanh tra Chính phủ Nguyễn Văn Thanh chủ trì một cuộc họp của Tổ Biên tập soạn thảo Luật Thanh tra (sửa đổi) thời điểm trước 6/2021. Ảnh: PV
3. Về tổ chức, chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính
3.1. Về tổ chức và chức năng của các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính
Dự thảo Luật kế thừa các quy định hiện hành về tổ chức các cơ quan thanh tra Nhà nước và thiết kế mô hình các cơ quan thanh tra cho phù hợp với thực tiễn quản lý Nhà nước của các bộ, ngành, địa phương. Theo đó, hệ thống hành chính Nhà nước có các cơ quan thanh tra: Thanh tra Chính phủ; thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ; thanh tra tổng cục, cục và tương đương; thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thanh tra chuyên ngành thuộc cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh và thanh tra huyện ở những nơi đáp ứng được các tiêu chí thành lập thanh tra huyện.
Các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính là bộ phận của hệ thống các cơ quan thanh tra bao gồm: Thanh tra Chính phủ; thanh tra tỉnh và thanh tra huyện, cụ thể là:
- Dự thảo Luật xác định Thanh tra Chính phủ là cơ quan quản lý Nhà nước cao nhất của Chính phủ về các lĩnh vực thanh tra và thực hiện quyền thanh tra trong các lĩnh vực công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định trước đây, dự thảo Luật nhấn mạnh quyền hạn và trách nhiệm của Thanh tra Chính phủ trong kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn theo tinh thần của Luật Phòng, chống tham nhũng 2018 và trong công tác tiếp công dân.
- Cơ quan thanh tra cấp tỉnh: Tổ chức, sắp xếp lại các cơ quan thanh tra sở, thanh tra huyện và thanh tra tỉnh theo hướng thu gọn đầu mối. Thanh tra tỉnh thực hiện thanh tra hành chính trong phạm vi toàn tỉnh và thực hiện thanh tra chuyên ngành đối với những lĩnh vực không tổ chức thanh tra sở. Trên cơ sở sắp xếp lại biên chế thanh tra các huyện thuộc tỉnh, sẽ thành lập các phòng thanh tra thuộc thanh tra tỉnh để phụ trách công tác thanh tra theo địa bàn các huyện đối với những huyện không tổ chức thanh tra huyện.
- Thanh tra huyện là cơ quan của UBND cấp huyện thực hiện nhiệm vụ thanh tra hành chính, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Dự thảo Luật quy định thanh tra huyện được thành lập ở huyện thỏa mãn một trong các tiêu chí: có dân số từ … dân trở lên; thu ngân sách bình quân 05 năm từ … trở lên; huyện miền núi, biên giới, hải đảo mà trung tâm hành chính huyện cách trung tâm hành chính tỉnh từ…km trở lên và có điều kiện đi lại khó khăn.
Việc thành lập thanh tra huyện do Thủ tướng Chính phủ quyết định theo đề nghị của chủ tịch UBND tỉnh sau khi thống nhất với Tổng Thanh tra Chính phủ. Tại những huyện được thành lập thanh tra huyện theo quy định của Luật Thanh tra, tổ chức thanh tra huyện và ban tiếp công dân huyện được hợp nhất thành thanh tra huyện.
Tại những nơi không tổ chức thanh tra huyện thì chức năng thanh tra do thanh tra tỉnh thực hiện; chức năng quản lý Nhà nước và tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo do ban tiếp công dân huyện thực hiện; chức năng quản lý Nhà nước và phòng, chống tham nhũng do cơ quan nội vụ thực hiện. Các công chức thanh tra huyện một phần sẽ sắp xếp, chuyển biên chế về thanh tra tỉnh và một phần chuyển sang ban tiếp công dân huyện.
- Về tổ chức ban tiếp công dân: Luật Tiếp công dân hiện nay quy định Ban Tiếp công dân Trung ương thuộc Thanh tra Chính phủ, ban tiếp công dân ở cấp tỉnh, cấp huyện thuộc UBND cùng cấp, do một phó chánh văn phòng phụ trách. Việc tổ chức như vậy làm cho công tác tiếp dân có phần tách rời với công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Để khắc phục tình trạng này, Luật Thanh tra sửa đổi dự kiến sẽ đưa ban tiếp công dân của tỉnh thuộc cơ cấu của thanh tra tỉnh do một phó chánh thanh tra tỉnh làm trưởng ban.
Việc quy định thành lập cơ quan thanh tra huyện linh hoạt dựa trên các tiêu chí nêu trên bảo đảm việc sắp xếp tổ chức các cơ quan thanh tra phù hợp với tình hình thực tiễn tại các địa phương; tạo sự chủ động trong việc sử dụng công chức phục vụ các yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng của địa phương, nâng cao hiệu quả sử dụng công chức và hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước. Những địa bàn thực sự không cần tổ chức cơ quan thanh tra, nhu cầu thanh tra của cấp huyện với cấp xã không còn nhiều thì chủ tịch UBND huyện vẫn có thể sử dụng công cụ kiểm tra phục vụ yêu cầu quản lý Nhà nước của mình trên địa bàn.
3.2. Về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính
Trên cơ sở rà soát, tổng kết các quy định pháp luật về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, Ban soạn thảo đã thiết kế nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra nói chung và các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính nói riêng theo nhóm chức năng, nhiệm vụ bao gồm: trong lĩnh vực thanh tra; tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Đồng thời, phân định rõ nhiệm vụ của cơ quan thanh tra và nhiệm vụ của người đứng đầu cơ quan thanh tra.
Các quy định này đảm bảo phù hợp, thống nhất với các văn bản pháp luật có quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra Nhà nước được quy định tại Luật Thanh tra hiện hành, Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo và Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các văn bản pháp luật có liên quan.
4. Về cơ quan thanh tra theo ngành
Dự thảo Luật quy định về thanh tra theo ngành gồm: Thanh tra bộ, thanh tra tổng cục, cục thuộc bộ và thanh tra sở, cụ thể là:
- Thanh tra bộ là cơ quan của bộ, giúp bộ trưởng quản lý công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng thuộc phạm vi quản lý Nhà nước của bộ; tiến hành thanh tra hành chính đối với cơ quan, tổ chức cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của bộ trưởng; tiến hành thanh tra chuyên ngành trong các lĩnh vực không có tổ chức thanh tra chuyên ngành thuộc thẩm quyền quản lý Nhà nước của bộ; thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Thanh tra bộ chịu sự chỉ đạo, điều hành của bộ trưởng và chịu sự chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về tổ chức, nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ.
- Thanh tra tổng cục, cục là cơ quan của tổng cục, cục để thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Thanh tra tổng cục, cục chịu sự chỉ đạo, điều hành của tổng cục trưởng, cục trưởng, sự hướng dẫn nghiệp vụ của thanh tra bộ.
Dự thảo Luật quy định việc thành lập thanh tra tổng cục, cục ở một số lĩnh vực như: Tài nguyên & môi trường, tài chính, giao thông, nông nghiệp & phát triển nông thôn, xây dựng, công thương…
Đồng thời, tổ chức, sắp xếp lại các cơ quan thanh tra của các bộ theo hướng thanh tra bộ thực hiện thanh tra hành chính trong phạm vi quản lý của bộ trưởng và thực hiện thanh tra chuyên ngành đối với những lĩnh vực quản lý không tổ chức thanh tra chuyên ngành ở các tổng cục, cục thuộc bộ.
Việc thành lập cơ quan thanh tra ở một số tổng cục, cục thuộc bộ để thực hiện thanh tra chuyên ngành trong phạm vi quản lý của tổng cục trưởng, cục trưởng là cần thiết để khắc phục những bất cập trong việc giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành theo tinh thần của Luật Thanh tra 2010 và Nghị định số 07/2012/NĐ-CP về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành.
- Thanh tra sở là cơ quan của sở, giúp giám đốc sở tiến hành thanh tra chuyên ngành, làm nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Thanh tra sở chịu sự chỉ đạo, điều hành của giám đốc sở và chịu sự chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về tổ chức, nghiệp vụ của thanh tra tỉnh.
Chỉ thành lập thanh tra sở là cơ quan thanh tra chuyên ngành ở một số lĩnh vực có nhu cầu thanh tra cao và ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống của người dân và doanh nghiệp (tài nguyên và môi trường; tài chính; khoa học và công nghệ; giao thông vận tải; nông nghiệp và phát triển nông thôn; y tế; giáo dục; lao động, thương binh và xã hội; kế hoạch đầu tư; công thương; thông tin – truyền thông; văn hóa, thể thao, du lịch; nội vụ). Việc thành lập thanh tra sở trong các cơ quan chuyên môn khác của UBND tỉnh do Thủ tướng Chính phủ quyết định theo đề nghị của chủ tịch UBND tỉnh sau khi thống nhất với Tổng Thanh tra Chính phủ.
Những lĩnh vực quản lý Nhà nước không thành lập thanh tra sở thì chức năng thanh tra do thanh tra tỉnh thực hiện. Nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng sẽ do giám đốc sở giao cho các đơn vị khác thuộc sở đảm nhận. Nhiều hoạt động được quy định là thanh tra chuyên ngành hiện nay (thanh tra thường xuyên) thực chất là hoạt động kiểm tra sẽ không nằm trong hệ thống các cơ quan thanh tra, không hoạt động theo quy định của Luật Thanh tra. Các hoạt động này thực hiện theo các quy định về kiểm tra chuyên ngành nhằm mục đích giữ gìn trật tự, kỷ cương công cộng mà không cần thiết phải giao chức năng thanh tra chuyên ngành cho các cơ quan này như hiện nay, ví dụ như đội quản lý trật tự xây dựng, đội quản lý an toàn giao thông, ban vệ sinh an toàn thực phẩm… Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế yêu cầu quản lý cũng như tách bạch giữa hoạt động thanh tra và kiểm tra mà hiện nay đang có sự lẫn lộn và gây ra sự phản ứng khi cho rằng có quá nhiều cơ quan tiến hành thanh tra, làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân và doanh nghiệp. Việc tổ chức, sắp xếp lại thanh tra sở là phù hợp với tinh thần và quy định mới đây về các cơ quan chuyên môn ở địa phương tại Nghị định số 107/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
5. Tổ chức, hoạt động thanh tra trong các cơ quan khác của Nhà nước
Để tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động các cơ quan khác của Nhà nước, Dự thảo Luật đã quy định mang tính nguyên tắc như tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan thanh tra theo nhóm các cơ quan có đặc điểm chung, cụ thể là:
- Tòa án nhân dân Tối cao (TANDTC), Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao (VKSNDTC), Kiểm toán Nhà nước thành lập cơ quan thanh tra giúp Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Tổng Kiểm toán Nhà nước thực hiện nhiệm vụ thanh tra nội bộ, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của TANDTC, VKSNDTC, Kiểm toán Nhà nước.
Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Tổng Kiểm toán Nhà nước căn cứ vào quy định của Luật này ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành quy định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động thanh tra của TANDTC, VKSNDTC, Kiểm toán Nhà nước.
- Bảo hiểm xã hội Việt Nam thành lập cơ quan thanh tra để thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành trong các lĩnh vực quản lý của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
- Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp thành lập cơ quan thanh tra để thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
Cơ quan thanh tra của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp có trách nhiệm giúp Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp thực hiện các nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.
- Đài truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Đại học quốc gia Hà Nội, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh thành lập cơ quan thanh tra để giúp thủ trưởng thực hiện nhiệm vụ thanh tra nội bộ, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.
Để đảm bảo hiệu quả tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra trong các cơ quan khác của Nhà nước, dự thảo Luật quy định Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu, tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Thanh tra quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, Thanh tra Đài truyền hình Việt Nam, Thanh tra Đài tiếng nói Việt Nam, Thanh tra Thông tấn xã Việt Nam, Thanh tra Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Thanh tra Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Thanh tra Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Thanh tra Đại học quốc gia Hà Nội, Thanh tra Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh và chế độ chính sách đối với công chức, viên chức thực hiện các nhiệm vụ thanh tra tại cơ quan nói trên.
6. Thanh tra viên
Để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thanh tra Dự thảo Luật Thanh tra (gọi tắt là Dự thảo Luật) thiết kế một chương quy định về thanh tra viên, trong đó quy định:
- Thanh tra viên là công chức, sĩ quan Quân đội nhân dân, sĩ quan Công an nhân dân được bổ nhiệm vào ngạch thanh tra để thực hiện các nhiệm vụ thanh tra theo quy định của pháp luật. Các ngạch thanh tra viên bao gồm thanh tra viên, thanh tra viên chính, thanh tra viên cao cấp. Tổng Thanh tra Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm thanh tra viên cao cấp. Thanh tra viên và thanh tra viên chính do bộ trưởng, chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm theo thẩm quyền quản lý công chức. Đối với những ngành, lĩnh vực đặc thù có cơ quan thanh tra được thành lập theo quy định của Điều ước quốc tế thì Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm thanh tra viên đặc biệt theo đề nghị của bộ trưởng và Tổng Thanh tra Chính phủ. Thanh tra viên phải tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp và trước pháp luật về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Thanh tra viên được cấp trang phục thanh tra, thẻ thanh tra.
- Về tiêu chuẩn thanh tra viên:
+ Trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực, công minh, khách quan;
+ Tốt nghiệp đại học, có kiến thức quản lý Nhà nước và am hiểu pháp luật; đối với thanh tra viên chuyên ngành còn phải có kiến thức chuyên môn về chuyên ngành đó;
+ Được Tổng Thanh tra Chính phủ cấp chứng chỉ bồi dưỡng về nghiệp vụ thanh tra phù hợp với các ngạch thanh tra viên;
+ Có ít nhất 02 năm làm công tác thanh tra (không kể thời gian tập sự), trừ trường hợp là cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan Quân đội nhân dân, sĩ quan Công an nhân dân công tác ở cơ quan, tổ chức, đơn vị khác từ 05 năm trở lên chuyển sang cơ quan thanh tra Nhà nước…
Các quy định về tiêu chuẩn đối với Thanh tra viên nhằm nâng cao tiêu chuẩn đối với công chức làm nhiệm vụ thanh tra. Cùng với việc hoàn thiện các quy định pháp luật về thanh tra và việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra, ngành Thanh tra hướng tới xây dựng đội ngũ công chức thanh tra chính quy, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thanh tra, đồng thời phục vụ tốt yêu cầu quản lý Nhà nước của các cơ quan quản lý Nhà nước.
7. Hoạt động thanh tra
Đây là một trong những nội dung quan trọng của Dự thảo Luật. Kế thừa những mặt tích cực của Luật Thanh tra hiện hành, luật hóa những quy định đã được thực hiện có hiệu quả thời gian qua, Dự thảo Luật đã quy định hoạt động thanh tra tại Chương V, cụ thể là:
- Những quy định chung trong hoạt động thanh tra gồm xây dựng, định hướng hoạt động thanh tra, kế hoạch thanh tra; hình thức thanh tra; thời hạn thanh tra; căn cứ ra quyết định thanh tra; trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan quản lý Nhà nước, người ra quyết định thanh tra, trưởng đoàn thanh tra; bảo đảm kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động thanh tra; xử lý hành vi vi phạm pháp luật của người ra quyết định thanh tra, thành viên đoàn thanh tra; xử lý chồng chéo, trùng lắp trong quá trình thanh tra.
Đặc biệt, việc xây dựng, ban hành định hướng hoạt động thanh tra hằng năm, kế hoạch thanh tra đã được quy định cụ thể theo hướng công khai, minh bạch, ví dụ như Dự thảo Luật đã xác định việc xây dựng định hướng hoạt động thanh tra, kế hoạch thanh tra nhằm bảo đảm cho hoạt động thanh tra có trọng tâm, trọng điểm, tránh chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động giữa các cơ quan thanh tra và giữa cơ quan thanh tra với các cơ quan kiểm tra, kiểm toán, giám sát, góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý Nhà nước. Định hướng hoạt động thanh tra hằng năm được xây dựng căn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của Chính phủ và việc tăng cường trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật quản lý Nhà nước trong các lĩnh vực. Kế hoạch thanh tra được xây dựng căn cứ vào định hướng hoạt động thanh tra hằng năm cũng như yêu cầu của nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội và công tác quản lý thuộc phạm vi quản lý của lĩnh vực và địa phương...
- Quy định cụ thể về đoàn thanh tra: Dự thảo Luật đã quy định việc ra quyết định thanh tra và thành lập đoàn thanh tra; nhiệm vụ, quyền hạn của trưởng đoàn thanh tra; nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên đoàn thanh tra, theo đó:
+ Thủ trưởng cơ quan thanh tra phải ra quyết định thanh tra, thành lập đoàn thanh tra để thực hiện nhiệm vụ thanh tra. Đoàn thanh tra có trưởng đoàn thanh tra, phó trưởng đoàn thanh tra (nếu cần thiết), thành viên đoàn thanh tra. Phó trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm giúp trưởng đoàn thanh tra thực hiện nhiệm vụ được giao, phụ trách một số hoạt động của đoàn thanh tra khi được trưởng đoàn thanh tra giao. Thành viên đoàn thanh tra thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của trưởng đoàn thanh tra. Trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra phải là người có phẩm chất đạo đức và chuyên môn tốt, không có xung đột lợi ích khi thực hiện nhiệm vụ thanh tra. Người ra quyết định thanh tra có thể thay đổi trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra khi cần thiết. Chính phủ quy định cụ thể các trường hợp thay đổi trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra.
+ Trong quá trình thanh tra, trưởng đoàn thanh tra có nhiệm vụ, quyền hạn: Tổ chức, chỉ đạo các thành viên đoàn thanh tra thực hiện đúng nội dung quyết định thanh tra; kiến nghị với người ra quyết định thanh tra áp dụng biện pháp thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của người ra quyết định thanh tra; yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu, báo cáo bằng văn bản, giải trình về vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; khi cần thiết có thể tiến hành kiểm kê tài sản liên quan đến nội dung thanh tra của đối tượng thanh tra…
+ Trong quá trình thanh tra, thành viên đoàn thanh tra có nhiệm vụ, quyền hạn: Thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của trưởng đoàn thanh tra; yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu, báo cáo bằng văn bản, giải trình về vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu đó.
- Chuẩn bị thanh tra: Dự thảo Luật đã luật hóa quy trình nghiệp vụ chuẩn bị thanh tra đã được thể hiện trong các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ của ngành Thanh tra. Những nội dung này đã chứng minh tính hợp lý trong quá trình các cơ quan thanh tra thực hiện hoạt động chuẩn bị thanh tra. Hoạt động chuẩn bị thanh tra bao gồm: Thu thập thông tin, tài liệu; việc ra quyết định thanh tra, gửi quyết định thanh tra cho đối tượng thanh tra; việc xây dựng, phê duyệt, phổ biến kế hoạch tiến hành thanh tra; xây dựng đề cương yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo; thông báo việc công bố quyết định thanh tra.
- Tiến hành thanh tra: Dự thảo Luật quy định cụ thể việc tiến hành thanh tra của các cơ quan thanh tra Nhà nước thông qua hoạt động của đoàn thanh tra như việc công bố quyết định thanh tra; xác định địa điểm, thời gian làm việc của đoàn thanh tra; việc thu thập thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra; kiểm tra, xác minh thông tin, tài liệu; việc xử lý sai phạm trong quá trình thanh tra… Đặc biệt, Dự thảo Luật đã bổ sung một số quy định nhằm tháo gỡ khó khăn trong công tác thanh tra hiện nay như quy định về sửa đổi, bổ sung kế hoạch tiến hành thanh tra (Điều 70); việc tạm dừng cuộc thanh tra (Điều 73); việc đình chỉ cuộc thanh tra (Điều 74)…
- Thực hiện quyền trong hoạt động thanh tra: Nhằm bảo đảm cho các cơ quan thanh tra, đoàn thanh tra hoàn thành nhiệm vụ thanh tra, Dự thảo Luật đã quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của người ra quyết định thanh tra; các quyền trong hoạt động thanh tra của trưởng đoàn thanh tra; thành viên đoàn thanh tra. Đồng thời, xác định nghĩa vụ cung cấp thông tin, tài liệu, báo cáo, giải trình của đối tượng thanh tra và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan…
- Kết thúc cuộc thanh tra: Dự thảo Luật quy định cụ thể sau khi kết thúc cuộc thanh tra, trưởng đoàn thanh tra phải có văn bản báo cáo kết quả thanh tra gửi tới người ra quyết định thanh tra. Người ra quyết định thanh tra xem xét, đánh giá các nội dung trong báo cáo kết quả thanh tra và chỉ đạo trưởng đoàn thanh tra xây dựng dự thảo kết luận thanh tra trình người ra quyết định thanh tra… Dự thảo Luật đã có những quy định mới liên quan đến việc thẩm định dự thảo kết luận thanh tra (Điều 88)…
- Giám sát hoạt động đoàn thanh tra: Để bảo đảm hoạt động của đoàn thanh tra đúng pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác thanh tra; kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt động thanh tra, Dự thảo Luật đã quy định một mục về giám sát hoạt động của đoàn thanh tra trong chương hoạt động thanh tra. Trong đó quy định rõ trách nhiệm của người ra quyết định thanh tra, thủ trưởng cơ quan, đơn vị quản lý trực tiếp công chức tham gia đoàn thanh tra; nội dung giám sát hoạt động đoàn thanh tra; nhiệm vụ, quyền hạn của người thực hiện giám sát; trách nhiệm của trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra trong hoạt động giám sát; tổ chức việc giám sát, báo cáo giám sát…
8. Phối hợp trong hoạt động thanh tra và việc xử lý chống chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động thanh tra, giữa thanh tra và kiểm toán
Dự thảo Luật đã xác định cụ thể các nguyên tắc để tránh chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động thanh tra và giữa hoạt động thanh tra với hoạt động kiểm toán khi xây dựng kế hoạch và trong quá trình triển khai thực hiện.
Về chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động thanh tra: Quy định bộ, tỉnh chỉ có một kế hoạch thanh tra do bộ trưởng, chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh ban hành. Kế hoạch thanh tra của bộ, của tỉnh được xây dựng trên cơ sở định hướng chương trình thanh tra và hướng dẫn của Thanh tra Chính phủ. Trong quá trình thực hiện, nếu có sự chồng chéo, trùng lặp thì cơ quan thanh tra cấp trên sẽ thực hiện nội dung thanh tra đó.
Về chồng chéo, trùng lặp giữa hoạt động thanh tra và hoạt động kiểm toán: Dự thảo Luật quy định cụ thể về trách nhiệm của Thanh tra Chính phủ và Kiểm toán Nhà nước phải có đánh giá, tổng kết kết quả công tác thanh tra, kiểm toán để có căn cứ xây dựng kế hoạch cho năm tiếp theo. Việc xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm toán hằng năm phải có sự trao đổi, thống nhất giữa Tổng Thanh tra Chính phủ và Tổng Kiểm toán Nhà nước, thực hiện nguyên tắc một nội dung hoạt động của tổ chức, cá nhân chỉ có thể là đối tượng của một cơ quan thanh tra hoặc kiểm toán.
Thủ trưởng cơ quan thanh tra và Tổng Kiểm toán Nhà nước, trưởng kiểm toán khu vực, chuyên ngành có trách nhiệm phối hợp trong hoạt động, trao đổi thường xuyên để tránh chồng chéo, trùng lặp khi tiến hành thanh tra, kiểm toán. Trường hợp phát hiện thấy nội dung, phạm vi thanh tra có chồng chéo, trùng lặp với cơ quan thực hiện chức năng thanh tra khác hoặc Kiểm toán Nhà nước, thủ trưởng cơ quan tiến hành thanh tra phải báo cáo ngay với thủ trưởng cơ quan hành chính cùng cấp, cơ quan thanh tra cấp trên và cơ quan, đơn vị có liên quan để có giải pháp phù hợp tránh chồng chéo, trùng lặp và đảm bảo tính kế thừa trong hoạt động giữa các cơ quan, đơn vị. Trong trường hợp không thống nhất được ý kiến thì báo cáo Tổng Thanh tra Chính phủ và Tổng Kiểm toán Nhà nước xem xét, giải quyết.
9. Về việc xử lý sai phạm trong quá trình thanh tra
Để tăng cường hiệu quả phối hợp giữa cơ quan thanh tra với cơ quan điều tra, kiểm sát để xử lý các sai phạm trong quá trình thanh tra, Dự thảo Luật đã quy định:
- Trong quá trình thanh tra, nếu phát hiện có sai phạm thì trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra lập biên bản về việc sai phạm để làm cơ sở xử lý theo quy định của pháp luật. Người ra quyết định thanh tra, trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra phải thực hiện các quyền thanh tra cần thiết quy định tại Điều ...của Luật này để chấm dứt hành vi vi phạm, kịp thời bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Trong trường hợp sai phạm của đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan không thuộc thẩm quyền xử lý của mình thì trưởng đoàn thanh tra kiến nghị người ra quyết định thanh tra hoặc thủ trưởng cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý.
- Khi phát hiện hồ sơ, tài liệu về các hành vi sau đây thì trưởng đoàn thanh tra phải báo cáo người ra quyết định thanh tra chuyển hồ sơ, tài liệu đó cho cơ quan điều tra có thẩm quyền để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật và thông báo cho viện kiểm sát cùng cấp biết:
+ Các hành vi về tham nhũng: Hành vi tham ô tài sản; hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ; hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi;
+ Các hành vi vi phạm về quản lý kinh tế: Hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí; hành vi vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng; hành vi vi phạm quy định về kế toán; hành vi vi phạm quy định về đấu thầu;
+ Hành vi vi phạm quy định về quản lý đất đai;
+ Hành vi vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng; hành vi vi phạm quy định về xây dựng;
+ Các hành vi vi phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm: Hành vi trốn thuế; hành vi vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng; hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động.
- Cơ quan điều tra có trách nhiệm thông báo cho cơ quan thanh tra đã chuyển hồ sơ, tài liệu về kết quả giải quyết vụ việc. Cơ quan thanh tra đã chuyển hồ sơ, tài liệu có trách nhiệm theo dõi việc giải quyết của cơ quan điều tra; trường hợp cơ quan thanh tra không đồng ý với việc giải quyết của cơ quan điều tra thì thủ trưởng cơ quan thanh tra báo cáo thủ trưởng cơ quan quản lý cấp trên biết và xin ý kiến chỉ đạo.
- Cùng với việc chuyển hồ sơ, tài liệu cho cơ quan điều tra, người ra quyết định thanh tra chỉ đạo đoàn thanh tra tiếp tục thanh tra về các nội dung theo kế hoạch tiến hành thanh tra đã phê duyệt và ban hành kết luận thanh tra theo quy định của pháp luật về thanh tra.
Quy định này cũng giúp xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan thanh tra, cơ quan điều tra và các cơ quan Nhà nước có liên quan trong việc phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật nói chung và các hành vi tội phạm nói riêng.
10. Về thanh tra nhân dân
Hoạt động của các cơ quan thanh tra Nhà nước và của các ban thanh tra nhân dân là khác nhau về bản chất. Hoạt động của cơ quan thanh tra mang tính quyền lực Nhà nước; ban thanh tra nhân dân là một trong những thiết chế dân chủ cơ sở, hoạt động của ban thanh tra nhân dân là hoạt động giám sát của nhân dân với các cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước. Do vậy, cần tách nội dung về thanh tra nhân dân ra khỏi Luật Thanh tra.
Dự thảo Luật Thanh tra sửa đổi không có nội dung về thanh tra nhân dân nên Thanh tra Chính phủ cần đề xuất Quốc hội đưa vào Chương trình xây dựng Luật và Pháp lệnh của Quốc hội và giao cho cơ quan, tổ chức có trách nhiệm chủ trì soạn thảo trình Quốc hội thông qua trong thời gian sớm nhất./.
TS. Nguyễn Văn Tuấn
Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, TTCP