Một số vướng mắc trong giải quyết tố cáo (Phần 1)

Thứ ba, 28/02/2017 17:15
(ThanhtraVietnam) - Trong quá trình giải quyết tố cáo, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đang gặp không ít những vướng mắc đối với một số quy định liên quan đến thẩm quyền giải quyết tố cáo, việc xử lý đơn tố cáo, vấn đề thời hiệu, kiến nghị, phản ánh, thủ tục giải quyết tố cáo, vấn đề tố cáo tiếp, thủ tục giải quyết tố cáo, khen thưởng người tố cáo, nghĩa vụ của người tố cáo, vấn đề xử lý hành vi vi phạm pháp luật tố cáo,…
<p class="MsoNormal" style="text-align:justify;line-height:120%"><span style="font-size: 10pt; line-height: 120%; font-family: Arial, sans-serif; color: rgb(71, 71, 71); border-width: 1pt; border-style: none; border-color: windowtext; padding: 0in;">Trước hết, nói về thẩm quyền giải quyết tố cáo, Khoản 1 Điều 12 Luật Tố cáo (2011) quy định “Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức đó giải quyết”. Tuy nhiên, Luật Tố cáo chưa quy định việc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo tại thời điểm tố cáo hay tại thời điểm người bị tố cáo thực hiện hành vi bị tố cáo. Cụ thể như xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo trong trường hợp người bị tố cáo đã chuyển công tác; cơ quan, tổ chức, đơn vị có người bị tố cáo công tác đã giải thể hoặc sát nhập sang đơn vị mới; cán bộ, công chức đã về hưu nhưng bị tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật lúc đương nhiệm; hoặc trường hợp tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức tại thời điểm cán bộ, công chức đó giữ chức vụ thấp nhưng tại thời điểm tố cáo, cán bộ, công chức này đã giữ chức vụ cao hơn, ví dụ như người bị tố cáo là Chủ tịch UBND cấp xã đã được bổ nhiệm lên Chủ tịch UBND cấp huyện thì người có thẩm quyền giải quyết tố cáo là Chủ tịch UBND cấp huyện hay là Chủ tịch UBND cấp tỉnh?<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;line-height:120%"><span style="font-size: 10pt; line-height: 120%; font-family: Arial, sans-serif; color: rgb(71, 71, 71); border-width: 1pt; border-style: none; border-color: windowtext; padding: 0in;">Ngoài ra, Khoản 2 Điều 13 Luật tố cáo quy định “Chủ tịch UBND cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ của Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã, người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện và cán bộ, công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp”. Khái niệm “bổ nhiệm, quản lý trực tiếp” trong quy định này dẫn đến cách hiểu khác nhau, chẳng hạn đối với cán bộ, công chức thuộc cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện thì ai là người có thẩm quyền giải quyết (người quản lý trực tiếp là lãnh đạo phòng chuyên môn, còn người bổ nhiệm là Chủ tịch UBND cấp huyện).<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;line-height:120%"><span style="font-size: 10pt; line-height: 120%; font-family: Arial, sans-serif; color: rgb(71, 71, 71); border-width: 1pt; border-style: none; border-color: windowtext; padding: 0in;">Mặt khác, Luật Tố cáo chỉ quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; tố cáo và giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực. Theo đó, chỉ có tố cáo liên quan đến cán bộ, công chức, viên chức, người có hành vi vi phạm trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ mới được xem xét, giải quyết theo Luật Tố cáo. Tuy nhiên, còn một số lĩnh vực khác cần có sự can thiệp của Nhà nước, đó là: Việc giải quyết tố cáo người đứng đầu hội (tổ chức xã hội, nghề nghiệp...) liên quan đến công tác nội bộ của hội. Khi giải quyết tố cáo vi phạm điều lệ, quy chế của hội thì đã được pháp luật quy định. Nhưng khi giải quyết tố cáo người đứng đầu hội liên quan đến việc chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động, điều chuyển công việc trong hội ... hay tự tiến hành các hoạt động thuộc chức năng của cơ quan quản lý nhà nước ... thì không thực hiện được do đây là tố cáo liên quan đến hoạt động nội bộ của hội. Thiết nghĩ, cần mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật tố cáo, thẩm quyền giải quyết tố cáo liên quan đến người đứng đầu các tổ chức hội (không phải cán bộ, công chức, viên chức).<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;line-height:120%"><span style="font-size: 10pt; line-height: 120%; font-family: Arial, sans-serif; color: rgb(71, 71, 71); border-width: 1pt; border-style: none; border-color: windowtext; padding: 0in;">Về việc xử lý đơn tố cáo, kiến nghị, phản ánh, Điều 17 Thông tư số 07/2014/TT-TTCP ngày 31/10/2014 của Thanh tra Chính phủ định quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh: “Đối với đơn tố cáo xuất phát từ việc khiếu nại không đạt được mục đích, công dân chuyển sang tố cáo đối với người giải quyết khiếu nại nhưng không cung cấp được thông tin, tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc tố cáo của mình thì cơ quan, người có thẩm quyền không thụ lý giải quyết nội dung tố cáo”; tuy nhiên, không quy định cụ thể cách xử lý đối với đơn này như thế nào.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;line-height:120%"><span style="font-size: 10pt; line-height: 120%; font-family: Arial, sans-serif; color: rgb(71, 71, 71); border-width: 1pt; border-style: none; border-color: windowtext; padding: 0in;">Khoản 1 Điều 28 Thông tư số 07/2014/TT-TTCP quy định việc xếp lưu đơn đối với: “Đơn khiếu nại được quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 6 Thông tư này; đơn khiếu nại đã hết thời hạn, thời hiệu theo quy định của pháp luật; đơn khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật; kết luận nội dung tố cáo và quyết định xử lý tố cáo đã có hiệu lực pháp luật mà không có nội dung, tình tiết mới có thể làm thay đổi nội dung đã giải quyết; đơn rách nát, tẩy xóa chữ không đọc được”; nhưng không quy định việc xếp lưu đơn đối với đơn đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh trong trường hợp không đủ điều kiện xử lý theo quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 6 Thông tư số 07/2014/TT-TTCP.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;line-height:120%"><span style="font-size: 10pt; line-height: 120%; font-family: Arial, sans-serif; color: rgb(71, 71, 71); border-width: 1pt; border-style: none; border-color: windowtext; padding: 0in;">Điều 27 Luật Khiếu nại quy định thời hạn thụ lý khiếu nại là 10 ngày; điểm a Khoản 1 Điều 20 Luật Tố cáo quy định thời hạn tiếp nhận, xử lý, quyết định việc thụ lý/không thụ lý là 10 ngày (có thể là 15 ngày trong trường hợp xác minh họ, tên, địa chỉ của người tố cáo tại nhiều địa điểm). Tuy nhiên, việc quy định ngày (không phải ngày làm việc) dẫn đến nhiều vướng mắc, khó thực hiện như: Vẫn tính ngày nghỉ vào thời gian giải quyết. Đối với những ngày nghỉ dài (nghỉ lễ, tết) thì cơ quan có thẩm quyền không thể thụ lý trong thời hạn quy định./.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="text-align:justify;line-height:120%"><font color="#474747" face="Arial, sans-serif"><span style="font-size: 13.3333px;">(Còn nữa)</span></font></p> <p class="MsoNormal" align="right" style="text-align:right;line-height:120%"><b><span style="font-size: 10pt; line-height: 120%; font-family: Arial, sans-serif; color: rgb(71, 71, 71); border-width: 1pt; border-style: none; border-color: windowtext; padding: 0in;">K. Dung<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" align="right" style="text-align:right;line-height:120%">&nbsp;</p>
nguyetvm
Ý kiến bình luận
Họ và tên *
Email *
Nội dung bình luận *
Xác thực *

Bản quyền thuộc Tạp chí Thanh tra